HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN: 1900545562 (Từ: 8:00 - 17:00)

    Kiến thức giới tính

    Chương 2 : Nghiên Cứu Về Tình Dục Là Gì?

    Nghiên Cứu Về Tình Dục là một chương trong cuốn sách “Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người” của Tác giả George D. Zgourides và Christie S. Zgourides.

    Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người

    Tác giả : Bác Sĩ George D. Zgourides, Thạc Sĩ Christie S. Zgourides.

    Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang

     Chương 2 : Nghiên Cứu Về Tình Dục Là Gì?

    Nghiên cứu về tình dục là một phương thức khoa học thu thập thông tin về những khía cạnh khác nhau của tình dục nhằm mục đích thu được những hiểu biết có thể ứng dụng được cho các cá nhân và xã hội. Những phương pháp sớm nhất nghiên cứu về tình dục là xem xét những trường hợp lịch sử của các bệnh nhân và phỏng vấn rất nhiều người. Những phương pháp gần đây là quan sát những phản ứng tình dục của các tình nguyện viên ở trong phòng thí nghiệm và tiến hành các thử nghiệm. Tình dục học đã có nhiều tiến bộ trong những thập niên gần đây vì các nhà nghiên cứu về tình dục đã sử dụng những phương pháp tinh tế và vì mọi người đã trở nên cởi mở hơn đối với quan điểm thuộc hình thức này của nghiên cứu.

    Suy nghĩ Cá nhân :

    Tại sao bạn nghĩ rằng nghiên cứu tình dục là một lĩnh vực được quan tâm ít nhất cho đến tận thế kỷ 20?

    TÌNH DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

    Định nghĩa về tình dục học được trình bày ở Chương 1 đã sử dụng cụm từ một môn khoa học. Khoa học là gì? Và nghiên cứu tình dục như một môn khoa học là thế nào?

    Một số người không nghĩ rằng các môn khoa học “xã hội” chẳng hạn như xã hội học và tâm lý học là những môn khoa học “thực sự” giống như vật lý hay hoá học. Trong khi có những khác biệt cố hữu giữa các khoa học “mềm” và “cứng”, thì những nguyên tắc cơ bản chung của khoa học vẫn được áp dụng. Từ khoa học bắt nguồn từ tiếng La Tinh scire, nó có nghĩa là “hiểu biết.” Qua nhiều thế kỷ, khoa học gần như bao gồm tất cả các lĩnh vực. Chỉ trong vòng khoảng vài trăm năm trước, từ này đã bắt đầu được dùng để chỉ những giá trị và phương pháp nghiên cứu cụ thể nào đó. Ngày nay, một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể được gọi là một môn khoa học nếu như các nhà nghiên cứu nó sử dụng phương pháp khoa học – một hướng tiếp cận có hệ thống để nghiên cứu những câu hỏi và các vấn đề bằng việc quan sát một cách khách quan và chính xác, tiến hành thực nghiệm trực tiếp, thu thập và phân tích thông tin, và tái tạo những quá trình này. Nói cách khác, các nhà khoa học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu thập thông tin một cách cẩn thận, không thiên vị khi đánh giá các số liệu, quan sát các hiện tượng, tiến hành thử nghiệm, ghi chép các bước và kết quả một cách chính xác. Các nhà khoa học cũng quan tâm đến việc những phát hiện của họ được các nhà khoa học khác công nhận.

    Đàn ông hồi xuân như thế nào

    Nghiên cứu tình dục có phải là một khoa học? Đúng như vậy. Theo như định nghĩa thì tình dục học là một môn khoa học nghiên cứu về tình dục. Nhưng tại sao tình dục học là khoa học? Bởi vì những người nghiên cứu về tình dục (có nghĩa là những nhà nghiên cứu về tình dục chuyên nghiệp, những nhà giáo dục, những nhà trị liệu) dựa vào các phương pháp khoa học để nghiên cứu. Giống như các nhà khoa học khác, những nhà nghiên cứu về tình dục nhấn mạnh vào việc thu thập và phân tích số liệu một cách chính xác, không thiên vị, quan sát một cách có hệ thống, tiến hành thực nghiệm, và hoài nghi về những phát hiện của họ. Nói tóm lại, một môn cụ thể nào đó có phải là khoa học hay không phụ thuộc nhiều vào phương pháp nghiên cứu được sử dụng chứ không phải là lĩnh vực nghiên cứu cụ thể nào đó.

    NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC

    Trước khi thảo luận về những phương pháp nghiên cứu tình dục, chúng ta nên xem xét một số khái niệm nghiên cứu cơ bản. Những điều tra viên thường bắt đầu nghiên cứu sau khi tìm được những ý tưởng cho việc nghiên cứu của họ từ một học thuyết cụ thể nào đó, hay từ những phát biểu kết hợp nhằm giải thích những hiện tượng khác nhau. Bởi vì một học thuyết là quá chung chung hay mơ hồ để có thể kiểm tra một nghiên cứu nên các nhà nghiên cứu tạo ra một giả thuyết, hay một suy luận có thể kiểm chứng cụ thể từ học thuyết, và kiểm tra nó thay vì kiểm tra học thuyết. Kết quả của việc nghiên cứu hoặc chứng minh giả thuyết đưa ra là sai hay là đúng. Nếu kết quả bị chứng minh là sai, những nhà nghiên cứu không thể đưa ra những dự báo và phải đặt câu hỏi về tính chính xác của học thuyết. Còn nếu kết quả được chứng minh là đúng, những nhà nghiên cứu có thể đưa ra dự đoán căn cứ trên giả thuyết.

    Mục đích trước tiên của việc nghiên cứu về tình dục là phát hiện ra những khác biệt, xu hướng và kiểu mẫu liên quan đến tình dục của những thành viên trong một cộng đồng dân cư, hay một nhóm là đối tượng của nghiên cứu. Đối tượng là các thành viên của một cộng đồng dân cư, những người tham gia vào trong nghiên cứu. Những nhà nghiên cứu hi vọng rằng các đặc điểm của những ví dụ tiêu biểu của họ lấy trong cộng đồng dân cư là đại diện cho những đặc tính của toàn bộ tất cả các cộng đồng. Nếu như vậy, họ có thể khái quát hóa, hay áp dụng kết quả của họ vào cộng đồng. Ví dụ đại diện tiêu biểu nhất nhìn chung là ví dụ ngẫu nhiên, ở đó mỗi thành viên của một cộng đồng dân cư có cơ hội như nhau trong việc được lựa chọn là đối tượng của nghiên cứu.

    Những nhà nghiên cứu sử dụng một bài kiểm tra hay một bảng câu hỏi thăm dò trong nghiên cứu, họ quan tâm đến độ tin cậy của bài kiểm tra, hay khả năng cung cấp những kết quả nhất quán khi áp dụng vào những trường hợp khác nhau của bài kiểm tra đó. Họ cũng quan tâm đến căn cứ vững chắc của bài kiểm tra, hay khả năng đo lường những cái mà họ muốn đo lường của bài kiểm tra đó. Trongnghiên cứu định tính, thông tin được thu thập từ các đối tượng, có thể được lấy từ việc miêu tả bằng lời về các sự kiện cụ thể nào đó, chẳng hạn như cảm thấy thế nào khi quan hệ tình dục, hay từ việc quan sát trực tiếp các sự kiện, chẳng hạn như quan sát hành vi tình dục của các động vật thuộc loài linh trưởng. Trong nghiên cứu định lượng, thông tin được thu thập từ các đối tượng (ví dụ: tình trạng hôn nhân của đối tượng) có thể được lấy từ dạng hay được chuyển sang các con số (độc thân = 1; đã có gia đình = 2). Mặc dù những miêu tả bằng lời và những quan sát có thể hữu ích trong và đối với bản thân, nhưng nhiều nhà khoa học vẫn thích những thông tin được thu thập dưới dạng số hơn vì chúng tạo điều kiện dễ dàng cho việc phân tích số liệu.

    Những nhà nghiên cứu sử dụng số liệu thống kê, hay các bước toán học để miêu tả và rút ra kết luận từ các số liệu. Có hai loại số liệu thống kê: mang tính miêu tả, sử dụng để miêu tả số liệu (ví dụ: “72% phụ nữ trong nghiên cứu này có những ý nghĩa kỳ quặc về tình dục khi quan hệ”), và mang tính suy luận, sử dụng để đưa ra dự báo về một số lượng lớn hơn dân số dựa trên những khác biệt đáng kể được thấy giữa các cá nhân hay các nhóm (“Đàn ông thể hiện hành động khiêu dâm một cách bạo lực có xu hướng coi việc sử dụng bạo lực với phụ nữ là chấp nhận được nhiều hơn so với những người đàn ông không thể hiện hành động khiêu dâm một cách bạo lực”). Những nhà nghiên cứu sử dụng cả hai loại thống kê để rút ra những kết luận chung về những ví dụ và dân số của họ.

    ĐÁNH GIÁ NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC

    Các nguồn tài liệu nghiên cứu tình dục – những tạp chí và sách học thuật, những khảo sát mang tính quốc gia của các tạp chí, và “những tin vắn trên truyền hình” – rất đa dạng về chất lượng thông tin được xuất bản. Bởi thế sẽ là khôn ngoan nếu ta không chấp nhận giá trị bề ngoài của tất cả các nghiên cứu về tình dục. Khả năng đánh giá nghiên cứu và những khám phá của nó là rất quan trọng khi nghiên cứu hoạt động tình dục ở con người (hay bất kỳ chủ đề nào khác liên quan đến vấn đề này). Mặc dù có khá nhiều thông tin chính xác, nhưng cũng có không ít những thông tin không chính xác. Thật không may khi những nghiên cứu có ý đồ tồi hay được thực hiện một cách kém cỏi có xu hướng mang lại những quan niệm sai lầm về tình dục cho xã hội.

    Những tạp chí chuyên ngành và tạp chí xuất bản định kỳ có thể là những nguồn thông tin quan trọng cung cấp những thông tin khoa học về tình dục vì những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và những bác sĩ lâm sàng là những người đóng góp số lượng lớn tài liệu cho các tạp chí này, và cũng vì ban biên tập xem xét lại những tài liệu mà họ gửi, do đó những nghiên cứu được xuất bản có chất lượng cao hơn. Một số tạp chí đứng đầu về tình dục là Tạp Chí Thường Niên Về Nghiên Cứu Tình Dục, Những Tài Liệu Lưu Trữ Về Hành Vi Tình Dục, Nhà Giáo Dục Cuộc Sống Gia Đình, Những Quan Điểm Quy Hoạch Gia Đình, Tạp Chí Về Đồng Tính Luyến Ái, Tạp Chí Về Hôn Nhân Và Gia Đình, Tạp Chí Về Tâm Lý Học Và Hoạt Động Tình Dục ở Con Người, Tạp Chí Về Tình Dục Và Liệu Pháp Hôn Nhân, Tạp Chí Về Giáo Dục Giới Tính Và Liệu Pháp, Tạp Chí Về Nghiên Cứu Tình Dục, Những Khía Cạnh Y Học Về Tình Dục ở Con Người, Và Tạp Chí Về Kế Hoạch Hóa Gia Đình.Những tạp chí thông thường và truyền hình nhìn chung không cung cấp những nguồn thông tin khoa học chính xác về tình dục, bởi vì những nghiên cứu được thông báo trên các phương tiện truyền thông này có xu hướng thuộc phong cách gây xúc động mạnh và được xây dựng một cách kém cỏi.

    Các độc giả nên suy nghĩ về một số các vấn đề chung khi quyết định xem một nghiên cứu có giá trị hay không. Hỏi những câu hỏi dưới đây có thể có tác dụng:

    • Liệu những nhà nghiên cứu đó có trình độ để thực hiện những nghiên cứu liên quan đến tình dục? Những giấy tờ, bằng cấp chứng minh trình độ của họ? Họ có liên hệ gì với bệnh viện, viện nghiên cứu hàn lâm hay phòng thí nghiệm không?

    • Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là gì? Lợi thế và bất lợi của phương pháp nghiên cứu đó là gì? Liệu những nhà nghiên cứu đó có thừa nhận những hạn chế đi kèm với các phương pháp cụ thể của họ không?

    • Liệu những bảng câu hỏi hay bài kiểm tra được sử dụng có đáng tin cậy hay có căn cứ vững chắc không?

    • Liệu các nhà nghiên cứu có đưa ra sự khái quát hóa dựa trên số đông không? Nếu có thì đại diện nào của số đông được dùng làm ví dụ tiêu biểu của họ?

    • Liệu ví dụ tiêu biểu của họ có sự thiên vị về giới, có nhiều nam giới hơn phụ nữ hay ngược lại nhiều phụ nữ hơn nam giới không? Liệu ví dụ tiêu biểu đó có mang tính thiên vị ở bất kỳ cách nào khác không? Nó có tính đến nhóm thiểu số không? Ví dụ tiêu biểu đó chỉ được dành riêng cho đô thị hay nông thôn không?

    • Nếu nghiên cứu là một thử nghiệm thì liệu có một nhóm chỉ đạo không cho phép tiết lộ những điều kiện thực nghiệm so sánh với nhóm thử nghiệm không?

    • Liệu những nhà nghiên cứu có sử những các bài kiểm tra thống kê phù hợp nhất để phân tích số liệu không? hay họ chỉ đơn giản đưa ra nhận xét về cái có vẻ như là kiểu mẫu thôi.

    • Liệu những kết luận được rút ra từ các số liệu có biểu thị theo cách thừa nhận những khả năng khác không?

    • Có những nghiên cứu được xuất bản ủng hộ hay phản đối phương pháp nghiên cứu hay những khám phá của các nhà nghiên cứu này không?

    Bất kỳ nhà nghiên cứu dày dạn kinh nghiệm nào cũng sẽ chứng thực rằng danh sách những câu hỏi này đã bao quát hết các mặt. Các trường cao đẳng và đại học có đưa ra toàn bộ chương trình về nghiên cứu thống kê và các phương pháp nghiên cứu, nội dung của các chương trình đó không nằm trong phạm vi của cuốn sách này. Tuy nhiên, đọc và suy nghĩ về những chương đó sẽ cung cấp cho bạn ý niệm chung về các loại vấn đề giúp bạn đánh giá các bài nghiên cứu khác nhau.

    Suy nghĩ Cá nhân :

    Đâu là những lý lẽ tán thành và phản đối việc chọn trở thành một nhà nghiên cứu tình dục? Bạn dã bao giờ từng suy nghĩ đến việc chọn nghiên cứu tình dục là nghề nghiệp của mình? Tại sao có hay tại sao không?

    CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC

    Các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu về tình dục. Dưới đây là 6 phương pháp nghiên cứu phổ biến nhất: Nghiên cứu trường hợp, khảo sát, quan sát, so sánh giữa các nền văn hóa, tương quan, và thực nghiệm.

    Nghiên cứu Trường hợp

    Trong nghiên cứu trường hợp, các nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu tập trung vào một cá nhân, hay trong một số trường hợp là một nhóm nhỏ các cá nhân. Cá nhân tiêu biểu có điều kiện hiếm hay có phản ứng thuận lợi với phương pháp điều trị mới. Do đó, nghiên cứu trường hợp thường mang tính đơn giản về bản chất. Người nghiên cứu (thường là bác sĩ, nhà tâm lý học, nhân viên xã hội, nhà tư vấn, hay nhà giáo dục) có thể sử dụng hoặc không sử dụng bản tự báo cáo và bảng câu hỏi để có được những số liệu có thể xác định số lượng về người bệnh. Giống như nghiên cứu thực nghiệm, nghiên cứu trường hợp có thể được tiến hành trong hàng tuần, hàng tháng hay thậm chí hàng năm giữa nhà nghiên cứu và đối tượng.

    Một báo cáo trường hợp điển hình tuân theo 4 phần sau:

    • Trình bày vấn đề: Điều kiện hay vấn đề khiến người bệnh đi chữa trị, bao gồm cả những đánh giá về vấn đề.

    • Hoàn cản lịch sử: Tóm tắt lịch sử xã hội liên quan điều kiện của người bệnh.

    • Điều trị: Miêu tả quá trình chữa trị, bao gồm các bước và chi tiết mỗi buổi chữa.

    • Các kết quả điều trị: Miêu tả hiệu quả của việc điều trị, nếu có.

    Những nghiên cứu trường hợp rất có giá trị vì chúng cung cấp thông tin hữu ích về các cá nhân, những điều kiện hiếm, và các liệu pháp chữa trị mới. Nhiều thông tin về lạm dụng tình dục, sự cưỡng hiếp, và các rối loạn tình dục đã được phát hiện theo cách này. Mặt tiêu cực của phương pháp nghiên cứu này là, các nghiên cứu trường hợp có xu hướng tập trung vào bệnh lý học, và kết quả của nó chỉ được áp dụng cho những cá nhân có các điều kiện tương tự thay vì được áp dụng đại chúng. Sác xuất thiên kiến cao của người phỏng vấn ảnh hưởng đến các phản ứng của người bệnh đối với việc chữa trị cũng hạn chế sự tổng quát của phương thức nghiên cứu này.

    Hai trong số những nhà nghiên cứu tiên phong nổi tiếng nhất sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp để nghiên cứu về tình dục là Kraft-Ebing và Freud.

    Kraft-Ebing. Richard von Kraft-Ebing (1840-1902) là bác sĩ sống dưới triều đại của nữ hoàng Victoria, ông chủ yếu làm việc với những bệnh nhân mắc các chứng bệnh liên quan đến rối loạn tình dục. Những bài viết của ông về tình dục dựa trên 200 nghiên cứu trường hợp. Kraft-Ebing ủng hộ quan điểm phổ biến của triều đại nữ hoàng Victoriavề tình dục. Trong tác phẩm nổi tiếng của ông có tựa đềPsychopathia Sexualis (Tình dục Tâm thần) (1886/1978)2, Kraft-Ebing đã tranh luận rằng hoạt động tình dục vì bất kỳ mục đích gì ngoài mục đích sinh sản đều là lầm đường lạc lối. Tập trung vào những hành vi tình dục kỳ dị đôi khi xảy ra của bệnh nhân của mình, Kraft-Ebing đã giúp việc duy trì chuyện hoang đường ở thời đại Victoria về tình dục, coi nó như “căn bệnh” và do đó có gì đấy thật đáng sợ.

    Freud. Giống với người người đồng nghiệp Kraft-Ebing của mình, những bài viết của Sigmund Freud (1856-1939) về tình dục dựa trên công việc khám và điều trị những bệnh nhân mắc các bệnh liên quan đến rối loạn tình dục, mặc dù hầu hết các bệnh nhân ban đầu đến với Freud đều phàn nàn về những vấn đề đủ loại, không liên quan đến tình dục. Freud được đào tạo thành bác sĩ ở Đại học Vienna, nhưng sau đó ông quyết định cống hiến sức lực của mình cho việc nghiên cứu các quá trình tinh thần vô thức và có ý thức. Kết quả là Freud đã xây dựng một học thuyết toàn diện về hành vi của con người được biết đến dưới tên học thuyết phân tâm học.

    Freud tin rằng con người là những thực thể tình dục từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi, và hầu hết những rối loạn tâm thần là do những mâu thuẫn tình dục vô thức nảy sinh trong các giai đoạn phát triển nhạy cảm. Ví dụ học thuyết của Frued cho rằng một cậu bé 6 tuổi bị phạt vì đã sờ mó vào vùng sinh dục có thể xây dựng những mâu thuẫn về việc nghịch ngợm với vùng sinh dục và sau này trở nên bất lực. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Freud viết về tình dục là Ba bài Tiểu luận về Học thuyết Tình dục (1905)3.

    Những nghiên cứu trường hợp gần đây hơn. Kraft-Ebing và Freud không phải là hai nhà khoa học duy nhất sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp. Các nhà nghiên cứu ngày nay thường công bố những báo cáo về phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân với các điều kiện bất thường. Hầu hết các tạp chí hàng đầu về tình dục học đều xuất bản những nghiên cứu trường hợp. Nhiều sách về tình dục cũng có một hay nhiều báo cáo trường hợp dùng để minh họa các hướng tiếp cận mang tính đổi mới đối với phương pháp điều trị. Ví dụ cuốn Các Nguyên tắc và Thực hành Trị liệu Tình dục 4 do Sandra Leiblum và Raymond chủ biên là một tập hợp các chương và các báo cáo trường hợp về những rối loạn tình dục khác nhau và cách điều trị được các chuyên gia về tình dục viết.

    Nghiên cứu Khảo sát

    Một phương pháp thu thập thông tin về chủ đề quan tâm là hỏi mọi người về các trải nghiệm tình dục của họ. Nghiên cứu khảo sát là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong nghiên cứu tình dục, liên quan đến việc phỏng vấn hay thực hiện những khảo sát bằng văn bản đối với rất nhiều người. Những nhà nghiên cứu phân tích số liệu thu thập được từ các khảo sát và quyết định các xu hướng, sự tương đồng và khác biệt. Sau đó họ rút ra kết luận về các kiểu mẫu dân số điều tra.

    Thực hiện nghiên cứu khảo sát vừa có ưu điểm vừa có nhược điểm. Ưu điểm nằm ở chỗ thông tin thu thập từ nhiều đối tượng, linh hoạt trong thời gian phỏng vấn (ví dụ, thực hiện phỏng vấn cá nhân khi nào đối tượng thấy thuận tiện) và phương tiện sử dụng để phỏng vấn (qua điện thoại), và khá tiết kiệm chi phí. Khảo sát “bằng thư” có lợi thế đặc biệt vì nó đảm bảo tính bí mật, không có tên và do đó khiến cho các đối tượng trả lời một cách trung thực.

    Những nhược điểm của phương pháp này là sự bóp méo, thiên kiến của người phỏng vấn, và thiên kiến của người tình nguyện. Sự bóp méo xuất hiện khi một đối tượng, vì bất kỳ lý do gì, không trả lời các câu hỏi một cách trung thực. Thiên kiến của người phỏng vấn liên quan đến những kỳ vọng của người phỏng vấn hay những điệu bộ cử chỉ không có nghĩa, chẳng hạn như cười hay nhăn mặt, gây ảnh hưởng một cách không cố ý đến các phản ứng của đối tượng theo cách này hay cách khác. Thiên kiến của người tình nguyện xuất hiện khi người tình nguyện được chọn không phải là đại diện cho dân số nói chung. Những người tình nguyện nói về các vấn đề tình dục có thể phản ứng một cách khác đối với khảo sát so với những người không tình nguyện.

    Hiện tượng hồi xuân ở nữ

    Có một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả của bất kỳ nghiên cứu, khảo sát. Yếu tố đầu tiên là người được chọn làm ví dụ, đó là đại diện cho dân số được nghiên cứu. Một yếu tố khác là khống chếnhững biến số bên ngoài, chẳng hạn như nhiệt độ trong phòng hay mức độ tiếng ồn, những điều này có thể làm thay đổi kết quả nghiên cứu. Vẫn còn một thiên kiến nữa đó là thiên kiến của người nghiên cứu, đó là những kỳ vọng của người nghiên cứu về cái gì nên hay không nên diễn ra trong nghiên cứu, điều này gây ảnh hưởng đến kết quả.

    Ellis. Một nhân vật quan trọng trong thời kỳ đầu nghiên cứu về tình dục là Henry Havelock Ellis (1859-1939), ông là một trong những người nghiên cứu đầu tiên sử dụng phương pháp khảo sát tình dục. Là một nhà tâm lý học người Anh, Ellis đã làm việc để nâng cao hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội về tình dục bằng việc thu thập thông tin từ những cá nhân đúng mực chứ không phải từ những cá nhân lúng túng. Nhiều đức tin của ông về tình dục – chẳng hạn như việc thủ dâm không gây ra bệnh điên, rằng trẻ em cần được học về tình dục từ khi còn nhỏ, rằng hành vi tình dục của các nền văn hóa khác nhau là khác nhau – là “đi trước thời đại lúc đó” và đi ngược lại với những niềm tin chung được chấp nhận thời bấy giờ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ellis về tình dục là một loạt các tập sách có tiêu đề Các nghiên cứu về Tâm lý học Tình dục (1896-1928/1936)5 và Tâm lý học Tình dục: Sách giáo khoa dành cho Sinh viên (1933)6.

    Kinsey. Phải nói chắc chắn rằng những khảo sát về tình dục trên diện rộng nổi tiếng nhất là những khảo sát của Alfred Kinsey (1894-1956), một nhà sinh vật học có kiến thức về các quá trình tiến hóa. Năm 1937, khi được yêu cầu dạy một khóa học về hoạt động tình dục ở con người tại Đại học Indiana, Kinsey đã không thể kiếm đủ số lượng những thông tin đáng tin cậy về chủ đề này. Trong suốt 16 năm tiếp theo Kinsey và những cộng sự của ông đã thu thập số liệu bằng cách phỏng vấn và lấy tư liệu lịch sử tình dục của 5.300 nam giới và 5.940 phụ nữ Mỹ ở các lứa tuổi và trình độ học vấn khác nhau. Nghiên cứu của ông phát triển đến cực điểm khi các tác phẩm Hành vi Tình dục ở Namgiới (1948)7 và Hành vi Tình dục ở Nữ giới (1953)8 được xuất bản, hai cuốn sách này được phổ biến rộng rãi ở trên cả các tạp chí khoa học lẫn các phương tiện thông tin. Đến giữa thập kỷ 60, nghiên cứu của Kinsey là thông tin về tình dục duy nhất thuộc loại này có giá trị đối với các nhà khoa học xã hội.

    Kinsey bắt đầu xua tan đi những chuyện hoang đường về tình dục. Với hứng thú đặc biệt về thị trường tình dục của người Mỹ, Kinsey đã tích lũy những số liệu về các chủ đề như thủ dâm, những quan hệ ngoài hôn nhân, và đồng tính luyến ái. Cố nhiên, một số phát hiện của ông đã (và vẫn) gây tranh cãi. Ví dụ, những bị đơn trong các vụ kiện ly hôn theo báo cáo có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân nhiều hơn so với những gì mà các nhà nghiên cứu nghi ngờ. Điều tương tự cũng đúng đối với những bị đơn có quan hệ đồng tính luyến ái.

    Mặc dù, khảo sát của Kinsey được cho là khảo sát lớn và toàn diện nhất về tình dục cho đến ngày nay, nhưng nghiên cứu của ông đã bị lấy làm ví dụ cho một số vấn đề cố hữu thường gặp trong các nghiên cứu khảo sát. Những báo cáo của ông được lập dựa trên những thông tin từ các tình nguyện viên, những người có thể có hoặc có thể không nói ra động cơ tham dự vào nghiên cứu của họ (nghĩa là thiên kiến của tình nguyện viên). Báo cáo ghi lại những điều mà các đối tượng nói là họ đã làm, chứ không nhất thiết là điều mà họ thực sự đã làm (sự bóp méo). Và những đối tượng của Kinsey hầu hết là những người có học vấn, cư dân thành thị, là người da trắng (không phải là đại diện tiêu biểu). Trong khi hầu hết các nhà tình dục học đều tôn trọng các tác phẩm của Kinsey, coi các tác phẩm của ông là khảo sát có quy mô lớn đầu tiên về thái độ và hành vi tình dục của người Mỹ, ghi nhận sự xuất sắc về khả năng thực hiện nghiên cứu tình dục của ông, thì một số người khác lại khẳng định rằng, nhiều trong số các phương pháp của ông là không khoa học – và nó trở thành nguồn gốc của một số thông tin sai lầm về tình dục ngày nay.

    Hunt. Đầu những năm 1970, Tổ chức Playboy (Những kẻ ăn chơi) uỷ nhiệm cho Research Guild, một tổ chức nghiên cứu độc lập, tiến hành một khảo sát trên quy mô lớn về thói quen tình dục của người Mỹ. Nhà báo Morton Hunt đã viết ra những phát hiện của mình trong một loạt bài báo trên tạp chí Playboy. Tổ chức Playboy rất quan tâm đến những phát hiện mới của Kinsey, trong đó bao gồm cả nghiên cứu về những nhóm người mà Kinsey không tiến hành khảo sát, cũng như so sánh kết quả của Kinsey và Hunt để thấy xem có gì thay đổi trong kiểu mẫu tình dục từ những năm 40 đến những năm 50. Trên thực tế Hunt đã phát hiện ra những thói quen tình dục nhất định như quan hệ tình dục trước hôn nhân, điều này xảy ra phổ biến hơn so với thời kỳ của Kinsey. Ông cũng thấy một số ít khác biệt trong vai trò về giới. Những phát hiện của Hunt sau này xuất hiện trong cuốn Hành vi Tình dục ở thập niên 1970 (1974)9.

    Ví dụ của Hunt được thu thập bởi sự chọn lựa ngẫu nhiên từ danh bạ điện thoại trên khắp nước Mỹ, bao gồm 982 nam giới và 1.044 phụ nữ. Chỉ có 20% trong số những người được liên lạc lúc đầu đồng ý tham gia vào nghiên cứu, nghiên cứu này bao gồm những cuộc thảo luận nhóm nhỏ được tiến hành nhờ các bảng câu hỏi tự thực hiện. Hunt sau đó cũng thực hiện một số cuộc phỏng vấn. Ví dụ của Hunt được cho là đã đại diện cho dân số của toàn nước Mỹ trên phương diện giới tính, tuổi tác, chủng tộc, trình độ học vấn, nghề nhiệp, cư dân thành thị, nông thôn. Bảng câu hỏi tự thực hiện bao gồm 1.000 đến 1.200 hạng mục bao quát các chủ đề như thói quen, trải nghiệm và thái độ đối với tình dục.

    Những nhà phê bình nghi ngờ báo cáo của Hunt bởi một số lý do. Vì chỉ có 20% trong số các đối tượng tiềm năng đồng ý tham gia vào nghiên cứu, và tỷ lệ từ chối là 80% nên con số này làm tăng khả năng thiên kiến của người tình nguyện, gây ảnh hưởng đến kết quả. Hơn nữa, đối tượng của Hunt được lấy từ danh bạ điện thoại, vậy còn những người mà số điện thoại không được liệt kê hay không có điện thoại thì sao, họ đã bị loại ra khỏi nghiên cứu.

    Hite. Shere Hite công bố kết quả khảo sát của bà về tình dục của phụ nữ trên cuốn Báo cáo của Hite (1976)10. Bà đã gửi qua đường bưu điện bảng câu hỏi mang phong cách bài luận đến 100.000 cá nhân và các tổ chức của phụ nữ từ năm 1972 đến năm 1976, nhiều người trong số những người đó đã trả lời các quảng cáo của Hite trên những tạp chí như Phụ nữ, Tiếng nói Làng quê, và Tiểu thư. Hite đã nhận được 3.019 bài trả lời hoàn thiện cho bảng câu hỏi của mình từ những người phụ nữ, những người này đã bày tỏ quan điểm và cảm xúc của mình về các chủ đề tình dục khác nhau, từ sự cực khoái, thủ dâm đến tình dục đồng giới. Hite cũng đã tiến hành khảo sát 7.000 nam giới để lấy thông tin cho cuốn Báo cáo của Hite về Tình dục Nam giới (1981)11.

    Liệu các báo cáo của Hite có đại diện cho quan điểm tình dục của đàn ông và phụ nữ Mỹ nói chung không? Rõ ràng là không. Trên thực tế, những nhà phê bình vẫn nhắc lại các nghi vấn của mình đối với phương pháp nghiên cứu và kết luận đưa ra của bà, vì tính thiên kiến của đối tượng được chọn, tỷ lệ hồi âm đối với bảng câu hỏi được gửi đi thấp, và dấu hiệu mang tính vặt vãnh của dạng thức bài luận chứ không phải phân tích thống kê số liệu.

    Các khảo sát của Tạp chí. Khoảng 30 năm trước, có một số tạp chí đã tiến hành các khảo sát trên quy mô lớn về thái độ và hành vi tình dục đối với các độc giả của mình. Một số tạp chí nổi tiếng đã tiến hành khảo sát là Tâm lý học Ngày nay, Sách đỏ, Tạp chí Phụ nữ Gia đình, Tạp chí của McCall, Người theo chủ nghĩa thế giới, Các báo cáo của Người tiêu dùng, Phụ nữ Mới, Tạp chí của những kẻ ăn chơi, Sức khoẻ Con người, và Tạp chí Chi tiết/Tiểu thư. Số liệu đưa ra từ những tạp chí này và những khảo sát phổ biến khác đôi khi có thể làm “mở mắt”, cho dù nó thường nhận được số lượng phản hồi rất lớn từ người đọc. Nếu có, thì chỉ có một số rất ít những thông tin của chúng được áp dụng cho quảng đại quần chúng.

    Nghiên cứu Quan sát

    Không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng sự bóp méo là một hạn chế nghiên trọng của phương pháp khảo sát tình dục. Các đối tượng có thể không hoàn toàn trung thực khi nói với các trải nghiệm và phản ứng đối với tình dục. Họ có thể cảm thấy bối rối, không thể nhớ nổi một sự kiện, hay không thực hiện khảo sát một cách nghiêm túc. Bắt đầu từ những năm 60, một số nhà nghiên cứu đã quyết định rằng cách để giải quyết vấn đề về sự bóp mép là giám sát các phản ứng liên quan đến tình dục của đối tượng trực tiếp ở trong phòng thí nghiệm. Phương pháp nghiên cứu này được biết đến dưới tên nghiên cứu quan sát.

    Masters và Johnson. Có lẽ nhóm nghiên cứu nổi tiếng nhất sử dụng các phương pháp quan sát là nhóm của William Masters và Virginia Johnson. Mục đích thực hiện nghiên cứu khảo sát hoạt động tình dục ở con người của họ tập trung “vào việc nam giới và phụ nữ làm gì để phản ứng lại với các kích thích tình dục có hiệu quả, và tại sao họ lại làm như thế chứ không phải như những gì mọi người nói hay nghĩ là họ sẽ có thể có phản ứng khác” (Phản ứng Tình Dục Của Con Người, 1966, trang 20)12.

    Nghiên cứu quan sát của Masters và Johnson được thực hiện với 312 đối tượng là nam giới và 382 đối tượng là nữ giới, tham gia vào những hoạt động tình dục khác nhau trong khi đó nhiều loại thiết bị đã được thiết kế, lắp đặt để đo các phản ứng sinh lý. Ví dụ, một số đối tượng là phụ nữ đã thủ dâm khi sử dụng dương vật giả có gắn camera. Masters và Johnson đã quan sát và phân tích khoảng observed and 10.000 tình tiết tình dục khác nhau trong vòng 12 năm, sau đó cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng có tên là Phản ứng Tình dục của Con người (1966). Một thời gian ngắn sau đó, một cuốn sách nữa của họ về chữa trị các bệnh liên quan đến tình dục cũng được xuất bản có tên là Sự không thỏa đáng trong Tình dục của Con người (1970)13.

    Masters và Johnson cũng sử dụng nghiên cứu quan sát để nghiên cứu về các phản ứng tình dục của những người đồng tính luyến ái nam, nữ. Họ quan tâm đến việc phát hiện nếu có bất kỳ sự khác biệt nào giữa phản ứng của những người đồng tính luyến ái và của những người có quan hệ tình dục với người khác giới. Không có khác biệt nào được ghi nhận.

    Nghiên cứu quan sát cũng có những hạn chế, đặc biệt ở sự thiên kiến của tình nguyện viên. Các tình nguyện viên có thể không phải là đại diện cho toàn bộ dân số. Các cá nhân đồng ý để người khác quan sát khi họ quan hệ tình dục có thể thực hiện khác đi so với những người không đồng ý. Các đối tượng có thể hành động khác khi ở trong phòng thí nghiệm so với khi thực hiện ở nhà.

    Nghiên cứu So sánh giữa các nền văn hóa

    Để có thể thông cảm với những thói quen, thái độ và phong tục của người khác chúng ta cần phải có kiến thức về văn hóa và xã hội của họ. Đây là lý do tại sao một số nhà nghiên cứu về tình dục đã thực hiện nghiên cứu so sánh giữa các nền văn hóa, hay nghiên cứu nhằm phát hiện những khác biệt tồn tại giữa các nhóm người khác nhau. Hầu hết nghiên cứu so sánh giữa các nền văn hóa đều sử dụng các phương pháp nghiên cứu như khảo sát, quan sát trực tiếp, và quan sát người tham dự. Ở phương pháp quan sát người tham dự, “người quan sát” thực sự trở thành một thành viên của nhóm của những đối tượng của anh ta hay cô ta. Lợi thế của nghiên cứu quan sát người tham dự là cơ hội được thấy những điều liên quan đến tình dục thực sự xảy ra trong một nhóm, và sau đó xem xét thông tin này trong hệ thống xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo đang tồn tại.

    Mangaia, Nam Thái Bình dương, thuộc quần đảo Pô-li-nê-di, là xã hội được chọn làm chủ thể cho nghiên cứu so sánh về tình dục giữa các nền văn hóa. Thói quen tình dục của người Mangaians rất khác biệt so với thói quen tình dục của những người sống ở miền Bắc nước Mỹ. Người Mangaia tin rằng quan hệ tình dục thường xuyên là có lợi và cần thiết để có sức khỏe tốt, và tập luyện quan hệ tình dục bắt đầu từ rất sớm. Gia đình đặc thù của người Mangaia sống trong những túp lều có một gian, ở đó trẻ con xem cha mẹ chúng quan hệ tình dục. Cha mẹ cũng khuyến khích bọn trẻ thủ dâm. Và thanh thiếu niên nâng cao các kỹ năng làm tình của chúng bằng cách tập luyện với nhau, với hi vọng rằng cuối cùng chúng sẽ thu hút được một người bạn đời thích hợp. Những người đàn ông nhấn mạnh vào việc mang đến sự cực khoái cho bạn tình là nữ giới, mà điều này ở xã hội của người Mangaia có vẻ là rất phổ biến đối với cả hai giới.

    Tất cả mọi xã hội đều có những quan niệm về hành vi tình dục nào được coi là chấp nhận được trong gia đình hay xã hội. Nghiên cứu so sánh giữa các nền văn hóa chứng tỏ rằng cái được cho là tình dục “bình thường” hay chấp nhận được ở một nền văn hóa có thể là “bất thường” hay không chấp nhận được ở một nền văn hóa khác. Nói cách khác, các chuẩn mực Phương Tây không nhất thiết phải được áp dụng đối với các nền văn hóa, xã hội khác và ngược lại.

    Nghiên cứu Tương quan

    Các nhà nghiên cứu có thể chọn thực hiện nghiên cứu tương quan. Tương quan là quan hệ giữa hai biến số (hay “nhân tố”), mà biến số đó có thể là các sự kiện hành vi, đặc điểm hay thái độ. Mục đích của phương pháp nghiên cứu này là xác định xem liệu có tồn tại mối quan hệ giữa hai biến số không, và mức độ của mối quan hệ đó như thế nào. Các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp, khảo sát, phỏng vấn, nghiên cứu quan sát và nghiên cứu người tham dự để xác định xem có mối tương quan hay không.

    Mối tương quan hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực. Ở mối tương quan tích cực, giá trị của các biến số cùng tăng hoặc cùng giảm. Ở mối tương quan tiêu cực, một giá trị tăng trong khi đó giá trị kia giảm.

    Mọi người thường nhầm lẫn mối tương quan với sự tạo ra kết quả. Các số liệu tương quan không nói đến mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Chúng không cho biết liệu một biến số có là nguyên nhân hay có ảnh hưởng đến biến số khác hay không – mà nó chỉ nói rằng cả hai biến số trong chừng mực nào đấy có liên quan đến nhau. Bởi vậy, khi có sự tương quan thì những thay đổi trong giá trị của một biến số phản ánh những thay đổi trong giá trị của biến số kia. Để nghiên cứu những ảnh hưởng mà một biến số tác động lên biến số kia, nhà nghiên cứu phải tiến hành thử nghiệm.

    Những điểm cực khoái ở nữ giới

    Nghiên cứu Thử nghiệm

    Mục đích của nghiên cứu thử nghiệm là kiểm tra ảnh hưởng mà một biến số độc lập (biến số mà nhà thử nghiệm dùng) tác dụng lên một biến số phụ thuộc (biến số mà nhà thử nghiệm quan sát). Nói một cách đơn giản, nghiên cứu thử nghiệm quan tâm đến mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả hay tại sao điều gì đó lại xảy ra. Chỉ khi nhà thử nghiệm kiểm soát một cách cẩn thận những biến số ngoại lai có thể gây trở ngại thì họ mới có thể đưa ra được những kết luận có giá trị về ảnh hưởng của các biến số cụ thể lên các biến số khác.

    Một ví dụ về thử nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu tình dục là thử nghiệm thuốc. Từ những năm 1980, các nhà nghiên cứu trở nên quan tâm hơn đến việc thử nghiệm thuốc để có thể kéo dài cuộc sống của những người nhiễm HIV (vi rút làm suy giảm khả năng miễn dịch ở người) và bệnh nhân AIDS (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Trên thực tế, nhiều nghiên cứu thử nghiệm đã được tiến hành với thuốc zidovudine (trước đây được gọi là AZT, hay azidothymidine) và các loại thuôc ức chế khác nhau đã cho thấy rằng những loại thuốc này có thể làm châmj sự phát triển của bệnh AIDS.

    Các nhà nghiên cứu đôi khi thực hiện những thử nghiệm về thuốc trên động vật để kiểm tra tác dụng của thuốc định sử dụng cho con người. Ví dụ, nhà nghiên cứu có thể thử nghiệm thuốc chữa AIDS trên một nhóm các con khỉ bị AIDS (“nhóm A”), nhưng không thử nghiệm thuốc trên một nhóm các con khỉ khác (“nhóm B”), nhóm này sau đó được xem là nhóm đối chứng. Sau một vài thử nghiệm thuốc, nhà nghiên cứu này có thể muốn thấy một nhóm khỉ nào đó sẽ sống lâu hơn một nhóm khỉ kia. Nếu nhóm A sống lâu hơn nhóm B, nhà nghiên cứu thận trọng kết luận rằng loại thuốc mới đó có tác dụng kéo dài cuộc sống của những con khỉ bị bệnh AIDS. Nếu không nhóm nào sống lâu hơn nhóm nào hoặc nhóm B sống lâu hơn nhóm A, thì nhà nghiên cứu sẽ nghi ngờ tác dụng của thuốc thử nghiệm. Một thủ tục tiêu chuẩn của trong tất cả các môn khoa học, nhà nghiên cứu này cũng như các nhà nghiên cứu khác phải thử nghiệm đi thử nghiệm lại và khẳng định kết quả của họ nhiều lần trước khi đưa ra kết luận chắc chắn.

    Suy nghĩ Cá nhân

    Trong những phương pháp nghiên cứu tình dục chính được để cập ở chương này, phương pháp nào bạn cho là cung cấp thông tin có giá trị nhất về tình dục?

    TÍNH ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU TÌNH DỤC

    Đạo đức là những nguyên tắc chỉ đạo tự điều chỉnh mà các cá nhân và các nhóm người sử dụng để đưa ra quyết định, định nghĩa các tổ chức chuyên nghiệp của họ và hành vi ứng xử được trông đợi ở các thành viên. Bằng việc thực hiện quy tắc đạo đức, các tổ chức duy trì sự toàn vẹn của nghề nghiệp và bảo vệ lợi ích của các khách hàng và chủ thể. Hơn nữa, các quy tắc đạo đức giúp các chuyên gia định hướng khi họ phải giải quyết những tình huống rắc rối. Ở trường hợp cụ thể nào đó, nhà nghiên cứu là người đưa ra quyết định xem có nên hay khi nào cần thiết phải lừa dối các chủ thể một cách có mục đích.

    Mặc dù nhiều nhà chuyên môn và các tổ chức, chẳng hạn như Hiệp hội Tâm lý học Mỹ, đều có những nguyên tắc đạo đức, nhưng nhu cầu cần có đường lối chỉ đạo trong nghiên cứu tình dục là rất cần thiết. Đa số những nhà nghiên cứu tình dục ngày nay đều tuân theo những nguyên tắc đạo đức của các tổ chức mà họ là thành viên. Bản chất của tình dục là một vấn đề rất nhạy cảm, nên các nhà nghiên cứu phải có những quan tâm đặc biệt để bảo vệ các đối tượng của mình khỏi bất kỳ điều bất lợi nào do việc tham dự vào nghiên cứu. Ví dụ, nhà nghiên cứu cần có các phỏng vấn chi tiết cụ thể về lịch sử tình dục của các đối tượng nên bảo vệ các đối tượng của mình trước để đảm bảo rằng cuộc phỏng vấn đó sẽ không làm đảo lộn mọi thứ. Họ cũng nên thông báo cho các đối tượng về vai trò của họ trong nghiên cứu và những nguy cơ tiềm ẩn khi tham gia vào nghiên cứu. Các đối tượng cần hiểu rằng họ có thể từ chối không tham gia hoặc rút khỏi nghiên cứu bất kỳ lúc nào. Đồng ý tham gia vào một nghiên cứu trên cơ sở có loại thông tin này được xem như sự đồng ý am hiểu. Một khi nghiên cứu hoàn thành, nhà nghiên cứu nên cung cấp cho các đối tượng của họ toàn bộ chi tiết về nghiên cứu. Cung cấp những chi tiết này khi kết thúc thử nghiệm được cho là sự thẩm vấn.

    Việc lừa dối, hay che đậy mục đích và trình tự nghiên cứu không cho những người tham sự biết là việc làm đặc biệt bị phản đối bởi nhiều nhà nghiên cứu. Một số người thậm chí tin rằng việc sử dụng có mục đích hành vi lừa dối là không bao giờ có thể biện minh. Đối với những nhà nghiên cứu này, sự lừa dối làm giảm sự công nhận và ủng hộ của công chúng dành cho nghiên cứu. Đối với những nhà nghiên cứu khác, việc lừa dối là cần thiết nếu như việc biết trước về nghiên cứu ảnh hưởng đến phản ứng của đối tượng và làm hỏng kết quả nghiên cứu. Chẳng hạn như nếu đối tượng biết mục đích của nghiên cứu là để xem xét các thái độ liên quan đến sự phân biệt đối xử trong tình dục thì họ có thể cố gắng làm tránh sự xuất hiện của thành kiến.

    Nhiệm vụ đầu tiên của các nhà nghiên cứu là bảo vệ quyền lợi của đối tượng. Tuy nhiên, ngay cả những nhà nghiên cứu có đạo đức và cần thận nhất cũng có thể không lường hết được tất cả các rủi ro liên quan đến việc tham gia vào nghiên cứu. Bằng việc bảo vệ một cách cần thận các đối tượng, cung cấp càng nhiều thông tin cho các đối tượng trước khi nghiên cứu càng tốt, thông báo cho các đối tượng biết về quyền lợi của họ, tránh lừa dối bất cứ khi nào có thể và thẩm vấn đối tượng theo nghiên cứu, các nhà nghiên cứu có thể làm được nhiều điều để hạn chế đến mức tối thiểu các nguy cơ gây hại đến đối tượng.

    Suy nghĩ Cá nhân

    Hãy nghĩ xem bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu như bạn tham gia vào một thử nghiệm và mãi đến sau này bạn mới biết rằng mình đã bị lừa như là một phần của nghiên cứu. Liệu bạn có cảm thấy khác không nếu bạn biết về sụ lừa dối này từ nhà nghiên cứu trong thời gian phỏng vấn, chứ không phải từ người trợ lý của nhà nghiên cứu hàng tuần hay hàng tháng sau đó? Bạn sẽ nói với người nghiên cứu như thế nào nếu bạn ở trong hai hoàn cảnh nêu trên?

    Hầu hết các bài báo và các cuốn sách nói về tính đạo đức trong nghiên cứu tình dục đều nêu trách nhiệm của người nghiên cứu đối với đối tượng và đối với nghề nghiệp. Nhưng còn các đối tượng thì sao? Liệu các đối tượng có tuân thủ đạo dức trong việc trả lời các câu hỏi một cách trung thực nhất không? Liệu có thể chấp nhận được những đối tượng đồng ý tham gia vào nghiên cứu không phải với mục đích nâng cao hiểu biết mà là vì tiền không?

    NHỮNG ĐIỂM CHÍNH

    1. Nghiên cứu tình dục là phương pháp khoa học thu thập thông tin về tình dục. Tình dục học là một môn khoa học bởi vì những nhà nghiên cứu tình dục sử dụng phương pháp khoa học. Các nhà khoa học đặt câu hỏi và điều tra các vấn đề một cách có hệ thống thông qua các quan sát khách quan và chính xác, thử nghiệm trực tiếp, thu thập và phân tích dữ liệu, làm đi làm lại quá trình này.

    2. Để tiến hành nghiên cứu tình dục, các nhà tình dục học phải tạo ra một giả thuyết có thể kiểm chứng được từ một học thuyết về tình dục. Sau đó họ chọn phương pháp nghiên cứu thích hợp nhất để nghiên cứu chủ thể cụ thể mà khoa học quan tâm.

    3. Việc đánh giá các phát hiện của nghiên cứu căn cứ trên các thông tin như phẩm chất của nhà nghiên cứu, kỹ thuật được sử dụng, chất lượng của ví dụ mẫu, và việc sử dụng phân tích thống kê là rất quan trọng.

    4. Các nhà nghiên cứu sử dụng bất kỳ phương pháp nào trong các phương pháp để nghiên cứu vể tình dục. Trong nghiên cứu trường hợp, các nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu tập trung vào một cá nhân hay một nhóm nhỏ các cá nhân. Nghiên cứu khảo sát liên quan đến việc phỏng vấn hay thực hiện những khảo sát bằng văn bản đối với rất nhiều người. Trong nghiên cứu quan sát các nhà nghiên cứu thường giám sát bằng hình ảnh và/hay sinh lý các phản ứng của đối tượng trong phòng thí nghiệm. Các nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu so sánh giữa các nền văn hóa để phát hiện ra những khác biệt tồn tại giữa những nhóm người khác nhau. Trong nghiên cứu quan sát người tham gia, nhà nghiên cứu quan sát các đối tượng bằng cách biến mình thành thành viên của nhóm đối tượng của mình. Các nhà nghiên cứu sử dụng nghiên cứu tương quan để xác định xem có mối quan hệ nào tồn tại giữa hai biến số hay không. Mục đích của nghiên cứu thực nghiệm là xác định các mối quan hệ nhân quả.

    5. Đạo đức trong nghiên cứu tình dục là điều rất cần thiết. Đụng đến một vấn đề có bản chất nhạy cảm như tình dục, các nhà nghiên cứu phải đặc biệt cẩn thận để bảo vệ đối tượng của mình tránh khỏi những nguy hại có thể xuất hiện do tham gia vào việc nghiên cứu.

     Lời nói đầu ……………………………………………………………………………….

    Chương 1. Hoạt động tình dục Và Quan điểm Tâm sinh lý xã hội ………..

    Chương 2. Nghiên cứu về Tình dục là gì?………………………………………..

    Chương 3. Các khuôn mẫu, Vai trò và Nhận dạng về Giới …………………

    Chương 4. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Phụ nữ. ……………………….

    Chương 5. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Nam giới ……………………..

    Chương 6. Hưng phấn tình dục và Phản ứng lại………………………………..

    Chương 7. Thiên hướng Tình dục…………………………………………………..

    Chương 8. Các mối quan hệ Yêu đương…………………………………………

    Chương 9. Hành vi Tình dục………. ……………………………………………….

    Chương 10. Hoạt động tình dục, Sức khỏe và Sự tàn tật……………………

    Chương 11. Hoạt động tình dục Và Vòng đời…………………………………..

    Chương 12. Thụ thai, Mang thai và Sinh nở………………………………………

    Chương 13. Tránh thai và Nạo phá thai……………………………………………

    Chương 14. Các bệnh lây truyền qua đường Tình dục…………………………

    Chương 15. Rối loạn Tình dục và Cách chữa trị…………………………………

    Chương 16. Tình dục đồi trụy.. ………………………………………………………

    Chương 17. Chợ tình ……………………………………………………………………

    Chương 18. Hoạt động tình dục và Luật pháp……………………………………

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    giai-doc-gan-an-binh

    Khách hàng nhận xét

    Tôi rất yên tâm khi sử dụng sản phẩm của Dược An Bình. Từ khi sử dụng PHARZUBEST – Bổ sung vitamin và khoáng chất, sức khoẻ của tôi được cải thiện nhiều.
    Quang Trần
    Tôi đã sử dụng sản phẩm trà An Bình được một thời gian. Thực sự, sản phẩm rất tốt và tình trạng huyết áp thấp của em được cải thiện rõ rệt. Cám ơn Dược phẩm An Bình rất nhiều!
    Thị Hồng Duyên – Tân Yên, Bắc Giang
    Khi dùng Grathozi – Trị nấm âm đạo, bệnh của tôi đã thuyên giảm và khỏi hẳn sau 7 ngày.
    Thu Hương