HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN: 1900545562 (Từ: 8:00 - 17:00)

    Thuốc quý quanh ta

    Chữa bệnh bằng cây lược vàng như thế nào?

    Vai dưới bị ép nên cánh tay phải trở mãi mới chọn được chỗ đặt tay cho ít đau nhất. Nhưng rồi cơ tay co giật, rất đau, một đêm có khi bị giật 4 – 5 lần, cả đêm không ngủ được.

    Con tôi đưa đi bệnh viện, bác sĩ chẩn đoán: Thoái hóa đốt sống cổ – M47, cho chụp X-quang với kết quả: Hẹp khoảng đĩa đệm C4-C5; Xơ xương dưới sụn + gai xương bờ trước thân sống C4-C5. Kết luận: Thoái hóa cột sống cổ (C4,C5); Hẹp lỗ liên hợp C3 – C4, C4 – C5 (Bên T) và hẹp nhẹ C4 – C5 (bên P).

    Tôi mua mấy loại thuốc. Con dâu tôi (bác sĩ) bảo nếu uống thuốc không lành, sau này phải làm phẫu thuật. Mười lăm ngày uống thuốc, tôi không thấy thuyên giảm gì nên không muốn đi khám lại, nghĩ rằng bác sĩ đã chẩn đoán đúng bệnh và kê toa thuốc có giảm đau trong mấy ngày đầu.

    Sở dĩ không chịu đi tái khám vì tôi đã có được tập tài liệu Báo Người cao tuổi nói về tác dụng chữa bệnh của cây Lược vàng, trong đó có bài viết của các bệnh nhân và nhân chứng là NCT đã khẳng định họ tự chữa được nhiều bệnh nan y rất hiệu quả. Tôi đặt niềm tin mãnh liệt và tự tìm trồng, làm rượu uống, ăn lá cây Lược vàng chữa bệnh.

    =Thời gian bệnh còn nặng, hai tay tôi ngoặc ra sau không đến xương sống vì đau lắm, nên khi tắm muốn kì cọ hay gãi lưng đều không được.

    Tôi ăn lá Lược vàng ngày 4 lá, có khi xắt nhỏ ăn như rau sống thấy ngon. Còn rượu ngâm Lược vàng ngày 3 lần uống 1/2 li hột mít một lần như báo hướng dẫn. Tôi hay quên nên thường thì bắt đầu bữa ăn, hoặc sau ăn mới uống. Vậy mà từ khi sử dụng cây Lược Vàng, dùng khoảng 10 ngày, tôi đã hết đau. Sau một tháng, tôi báo cho gia đình biết là hai vai hết đau. Sau ba tháng, tay trái hết đau và đến nay là sáu tháng, tay trái trở lại bình thường, có thể choàng tay qua lưng ngoặt bàn tay ra phía trước. Còn tay phải cũng hết đau, nhưng choàng qua lưng chỉ tới được đến ngang hông.

    Cây lược vàng

    Cây lược vàng

    Tôi tuyên bố chắc chắn bệnh đã thuyên giảm được 90% và khoảng ba tháng nữa tôi sẽ đi chụp X-quang lại vì nghĩ lúc này sẽ dứt bệnh. Tôi cũng bị bệnh huyết áp cao (không nghiêm trọng lắm) nhưng từ khi uống rượu ngâm Lược vàng tôi không còn phải uống thuốc nữa, mà huyết áp cũng ổn định.

    Con dâu tôi rất ngạc nhiên, nhưng tôi không biết cách giải thích, chỉ biết chứng minh là bệnh của mình đã khỏi.

    Dùng lá Lược vàng, tôi rửa kĩ và rửa nước muối mới ăn. Còn ngâm với rượu, thời tiết tốt tôi rửa sạch, xắt phơi khô cả thân, vòi, rễ, lá, phơi không xáp nắng. Đến khi khô, tôi cho vào chai màu đen, đổ rượu 45o ngập thuốc, ngâm 12-15 ngày là dùng được. Tôi không uống được rượu, mà rượu thuốc thì mạnh quá nên tôi hòa 1 phần rượu thuốc và 10 phần nước để uống.

    Khi thời tiết không thuận lợi, tôi nhổ cây Lược vàng lên rửa sạch, treo lên cao, chỗ khô ráo độ 10 – 15 ngày cho thân cây thoát bớt nước, đem xuống vặt bỏ hết lá vảy khô, còn lại xắt nhỏ, phân ra loại thân xắt mỏng, vòi cắt khúc 3cm chẻ hai, lá xắt mỏng 1cm, rễ cắt khúc 5cm. Sau đó đem sao vàng (thân và vòi sao chung), lá sao riêng (nửa chừng cho rễ vào). Sao xong khử thổ đậy lại đến nguội thì dầm rượu trong chai màu đen.

    Dùng cây Lược vàng làm thuốc không tốn kém gì lại rất đơn giản, trị bệnh hiệu quả. Như tôi, chí ít cũng đã tiết kiệm được cả chục triệu đồng.

    Một số cách dùng cây lược vàng

    Dân gian dùng cây lược vàng chữa bệnh loét dạ dày tá tràng, lợi tiểu, ngăn ngừa và điều trị các khối u trong cơ thể. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ và Canada, dịch ép từ cây lược vàng rất giàu các chất kích thích sinh học có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của nhiều loại tế bào ung thư. Những chất này còn có khả năng chữa lành các bệnh mắt, viêm loét dạ dày tá tràng, hen suyễn, và nhiều bệnh khác nữa. Nó làm tăng quá trình biến dưỡng, làm tăng khả năng bảo vệ cơ thể và đồng thời thúc đẩy quá trình tái sinh (đổi mới) các tế bào trong cơ thể.

    Đặt cạnh bệnh nhân: Cây lược vàng có khả năng tẩy uế không khí ô nhiễm trong phòng, phóng thích những chất có ích cho việc điều trị các bệnh thuộc đường hô hấp. Nên đặt những chậu cây lược vàng bên cạnh chỗ nằm của bệnh nhân viêm phổi hoặc ung thư phổi.

    Dạng dầu:

    Cách 1: Lấy toàn cây lược vàng đem ép lấy dịch, bã còn lại đem phơi khô. Khi đã khô thì bẻ vụn ra ngâm trong dầu ô liu, đậy kín trong khoảng ba tuần. Sau đó trộn chung và lọc qua gạc mỏng, cho hỗn hợp dầu vào trong lọ thuỷ tinh màu, cất nơi mát.

    Cách 2: Cắt cây lược vàng thành những mảnh nhỏ rồi cho hết vào một nồi chịu nhiệt, rót dầu thực vật vào nồi rồi đem bỏ vào lò hầm ở 40oC trong tám giờ. Sau đó lọc qua gạc mỏng, cho hỗn hợp dầu vào trong lọ thuỷ tinh màu, cất ở nơi mát.

    Loại dầu này được dùng trị bệnh ngoài da hoặc để xoa chữa các chứng viêm khớp, cứng khớp hoặc bôi để xoa bóp giảm đau toàn thân.

    Dạng thuốc mỡ:

    Cắt nhỏ toàn cây và nghiền nát trong cối. Sau đó trộn với vaselin hoặc bột kem nhão để tạo thành một hỗn hợp theo tỷ lệ 2:3. Cho khối thuốc mỡ vào lọ thuỷ tinh màu, để nơi tránh ánh sáng.

    Cách bào chế khác là ép lấy dịch chiết của cây và trộn với vaselin hoặc kem theo tỷ lệ 1:3, sau đó cũng cho vào lọ đậy kín, bảo quản nơi mát. Thuốc mỡ này được dùng để bôi lên các vùng da bị tê cóng, bầm tím, viêm loét da, và còn được áp dụng để chữa các trường hợp viêm khớp, cứng khớp và đau nhức.

    Chú ý: Nên chọn những cây có ít nhất 9-10 đốt trở lên (không ngắn dưới 20cm), và có màu tím sậm vì lúc đó hàm lượng chất kích thích sinh học trong cây đạt mức tối đa.

    Chất steroid trong cây chính là phytosterol. Chất này có hoạt tính estrogen, tác dụng sát khuẩn, chống xơ cứng và kháng ung thư. Cây lược vàng còn có khả năng tẩy uế không khí ô nhiễm trong phòng, phóng thích những chất có ích cho việc điều trị các bệnh thuộc đường hô hấp.

    Người lớn ăn lá Lược vàng kèm theo bữa cơm như ăn rau sống, trung bình mỗi người 3 lá; đêm trước khi đi ngủ, xoa rượu ngâm Lược vàng vào hai đầu gối, hai chân, hai cánh tay và cột sống. Ai viêm họng, ho, đau răng ngậm rượu vào buổi sáng và tối, cả nhà uống nước Lược vàng, thay nước giải khát. Chỉ hơn hai tuần các bệnh trên giảm dần. Tuy vậy, trong các bữa ăn nước uống hằng ngày vẫn có dùng nước ép cây Lược vàng, phòng khi bệnh tái phát.

    Cháu ngoại tôi chạm chân vào bô xe, bị bỏng. Lập tức tôi nhai lá Lược vàng đắp vào, băng lại. Hôm sau tháo băng ra bề mặt vết bỏng có một lớp da mỏng, dùng tay bóc ra vài ngày sau là khỏi hẳn.

    Em gái tôi thường nuôi vịt, gà, nhưng không tiêm phòng, đến khi gia cầm lớn, chẳng may bị dịch chết gần hết. Nghe lời tôi, cô em hái lá Lược vàng băm nhỏ, trộn lẫn với cám, chuối (chuối cây) dằm một ít lá pha nước vào, để bên cạnh cho vịt, gà ăn rồi uống nước. Kết quả không ngờ đàn vịt 22 con, đàn già 17 con không con nào bị chết do dịch bệnh. Tin này truyền đi khắp xóm, nhà nhà đến xin cây Lược vàng về để phục vụ chăn nuôi.

    Tin về cây Lược vàng phòng và chữa được nhiều bệnh, ông Chi hội phó NCT phố tôi lấy quyển “Cây Lược vàng quý như vàng” của ông Kim Quốc Hoa làm nội dung sinh hoạt CLB vào ngày 20 hằng tháng. Đặc biệt, ông Chi hội phó có cả một vườn thuốc nam, trồng các cây Nha đam (còn gọi là Lô hội), Trinh nữ hoàng cung, đinh lăng và hơn 100 cây Lược vàng. Các cụ có bệnh thoải mái đến lấy về dùng; dần dần vườn thuốc nam của ông như của chung chi hội.

    Một số cụ có bệnh tiền liệt tuyến to, rất khó khăn tiểu đêm, chữa nhiều thuốc tây không khỏi. Có cụ đau nhức toàn thân, ho, kém ăn mất ngủ, dùng Lược vàng đều thấy đỡ nhiều lắm, lại không tốn kém. Đa số các cụ xắt cả lá lẫn cây, phơi héo 200g đến 500 gam ngâm một lít rượu trắng trong hai tuần, dùng trong uống ngoài xoa, hoặc nấu canh ăn. Có cụ xắt nhỏ phơi khô, hằng ngày pha nước uống thay trà; kết hợp với tập dưỡng sinh, một số cụ lên cân rõ rệt. 187 cụ trong chi hội hiện đang sống khỏe, vui vẻ cùng con cháu.

    Cây Lược vàng dễ trồng và có sức sống mãnh liệt, chế biến đơn giản, chữa được nhiều bệnh. Có cây Lược vàng trong nhà xem như là có tủ thuốc quý phòng và chữa bệnh hiệu quả.

    Tên khoa học: chưa có. Là cây thân mềm, có lá giống như lá lưỡi hổ (loại màu xám) hay đại tướng quân, nhưng dài hơn, bằng hoặc ngắn hơn lá lưỡi hổ, màu xanh non, có mùi hăng nhẹ của lá mùng tơi, phát huy hết tính năng vào mùa mưa do âm dương quân bình. Tên thường gọi của nó là cây lược vàng, cây kỳ duyên, cây bắp (không phải bắp – ngô), cây nguyên dương, thân bồ vàng, bà con Thanh Hóa còn đặt cho nó cái tên rất “thơ mộng” là địa lan, lan vòi (tuy nhiên việc “ghép” cho nó họ “lan” chưa đúng lắm vì lan có hoa, còn nó không hoa, lá lan không ăn sống được nhưng nó “eatable – ăn được); thân có đốt, các chồi non như mục măng tre, trúc nhảy lên từ mắt, ngó cây vươn dài độ 40cm trông như ngó khoai môn dùng làm cây cảnh trong trong sân vườn. Cây dễ trồng, mùa mưa không cần tưới nước nhiều vì cây có khả năng giữ nước tốt (5 ngày tưới 1 lần vào buổi chiều), mùa nắng nên tưới 1 lần vào sáng sớm để cây duy tinh chất hiện hữu của nó tốt hơn. Muốn nhân giống chỉ cần cắm chồi non xuống đất là phát triển.

    1/ Dùng lược vàng + mật gấu trị ung thư bao tử

    50gr lá cây lược vàng tươi giã nát chắt lấy nước cốt (hoặc ăn cả bã cũng tốt) +1 giọt mật gấu. Ăn sống ngày 1 lần lúc đói no đều được (đói tốt hơn), liên tục 1 tháng là khỏi bệnh.

    2/ 50gr lá lược vàng tươi giã nát chắt lấy nước cốt (hoặc ăn cả bã cũng tốt) + 5 giọt dấm ăn làm từ chuối ăn sống trị mất ngủ, đái tháo đường, đầy hơi không tiêu, xơ gan cổ trướng, u gan lành tính, viêm ống dẫn mật, sỏi mật (dạng bùn), ngộ độc thức ăn, ho do viêm phế quản lâu ngày, do viêm họng, bệnh vảy nến, làm sáng mắt, bệnh bạch cầu, chứng cảm mạo phong hàn.

    Dùng liên tục 5 ngày nghỉ 5 ngày uống tiếp. Thời gian sử dụng 1 tháng.

    3/ Nhai nát 1 lá tươi vào buổi trưa sau khi ăn liên tục 5 ngày chữa:

    – Đau đầu do thần kinh yếu.

    – 5 ngày liên tục buổi sáng sau khi ăn sáng chữa sài đẹn ở con nít.

    – Đắp 1 lần 10 – 20 phút lên vết bị bầm tím tan máu bầm.

    4/ Ngâm rượu: 100gr lá tươi + đốt + mắt + 0,5 lít rượu trắng chữa phù thũng, bệnh mộng du, mất ngủ, táo bón, u nang buồng trứng, rối lọan tiền đình, cảm mạo phong hàn, yếu sinh lý, xuất tinh sớm, di tinh, mộng tinh, kém trí nhớ (bệnh down), thần kinh phân lập (điên khùng do mất trí thông minh không phải bệnh do tà nhập), đục thủy tinh thể ở người già, ngủ thấy ác mộng do yếu thần kinh, vôi hóa đốt sống, đau khớp, nhức mỏi, suy nhược thần kinh, sỏi mật, viêm túi mật, viêm phúc mạc cấp, sạn thận, xơ gan cổ trướng, no hơi ăn không tiêu.

    Lưu ý: mục 4 ngày uống 2 lần sau khi ăn, lần 1 muỗng canh, chỉ dùng liên tục 1 tháng vì tính hàn của thuốc. Nếu chưa hết bệnh phải dừng sử dụng thuốc 1 tháng sau đó mới uống tiếp.

    5/ 50 gr cây màng màng (bòng bong) + 150gr lá tươi ngâm với 1 lít rượu trắng để chỗ mát 1 tháng dùng chữaung thư (ác tính) bạch cầu, sài đẹn, mộng du, ngủ mơ thấy ác mộng, yếu sinh lý, liệt dương, hiếm muộn, xơ gan cổ trướng, dái nước, giang mai.

    Cách dùng như sau:

    Uống 10cc (khoảng 1 muỗng canh/ lần) / 2 lần / ngày cho mỗi loại bệnh liên tục 10 ngày .

    Lưu ý: kiêng ăn bắp (ngô), đu đủ ruột đỏ, cam, mít, nhãn nên ăn trái cây có nhiều dương như: dâu tây, ổi, mãng cầu xiêm, táo tàu khô (táo đỏ), khổ qua, mãng cầu ta, rau muống, canh mùng tơi nấu nấm rơm, yaourt, sữa chua (kefir).

    6/ 2 lá lược vàng + 7 – 9 lá mùng tơi (nam 7 lá nữ 9 lá) giã nhuyễn vắt lấy nước cốt uống (hoặc ăn cả bã cũng tốt) vào buổi tối sau khi ăn liên tục 5 – 10 ngày trị các bệnh nóng gan do hỏa vượng, viêm gan siêu vi A,B,C, gan nhiễm mỡ, lở miệng do nóng, chống viêm loét ngoài da, ngủ thấy ác mộng do thần kinh yếu, chứng ra mồ hôi chân tay ở người lớn và đổ mồ hôi trộm ở trẻ em, đau đầu do yếu thần kinh, parkinson (chứng rung tay chân ở người già và người lớn dâm dục quá độ), đầy hơi ăn không tiêu.Riêng viêm gan siêu vi B,C phải dùng liên tục 1 tháng.

    7/ 2 lá lược vàng + 10gr rau om (rau ngổ) tươi giã nhuyễn vắt lấy nước cốt uống (hoặc ăn cả bã cũng tốt) vào buổi sáng sau khi ăn liên tục 5 – 10 ngày trị các bệnh đầy hơi ăn không tiêu, nám da do gan nóng, kích thích tiêu hóa ăn ngon miệng ở người mới ốm dậy, tiêu mỡ ở người mắc bệnh béo phì, sài đẹn ở trẻ em, chứng mất ngủ ở người già, phì đại tuyến tiền liệt ở nam giới, gan nhiễm mỡ, hiếm muộn, máu nhiễm mỡ, cận thị, yếu sinh lý, xuất tinh sớm. Riêng các bệnh gan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ phải dùng liên tục 1 tháng, nếu chưa hết bệnh ngưng uống 1 tháng rồi mới sử dụng tiếp tục cho đến lần thứ 3 là hết bệnh.

    Lưu ý: kiêng ăn hải sản tôm cua mực, thịt bò.

    8/ 2 lá lược vàng + 10gr bạc hà (rọc mùng) tươi giã nhuyễn vắt lấy nước cốt uống (có thể ăn cả bã lược vàng cũng tốt) vào buổi sáng sau khi ăn liên tục 10 – 15 ngày trị các bệnh đầy hơi ăn không tiêu, mất ngủ, ngủ thấy ác mộng do yếu thần kinh, khan tắc tiếng do cảm phong hàn, chứng điên khùng do thần kinh phân lập (không phải do tà nhập) – chỉ bớt bệnh điên khùng chứ không thể khỏi hẳn, rối loạn tiền đình, mộng du, đau đầu do yếu thần kinh, bổ thần kinh dẫn đến ngủ ngon đối với người già, ngủ nói lảm nhảm do yếu thần kinh.

    9/ Một số nhận xét về tài liệu chỉ dẫn cách sử dụng cây lược vàng:

    – Ngâm lá cây lược vàng với rượu thì tốt, nhưng ngậm rượu lá cây lược vàng thì “mùng màn méo” (méo mặt vì men răng bị mòn do lớp men tác dụng tốt với axít có trong rượu thuốc).

    – Đun nấu (việc hãm lá lược vàng như hãm trà (chè) xanh) làm “méo” (giảm) tính chất của thuốc.

    – Ngâm rượu ngắn ngày (15 ngày) như tài liệu nói trên chưa đủ thời gian để thuốc phát huy hết tác dụng có trong lá cây, chồi, mắt, mặt khác rượu chưa phân hủy hết men có thể gây hại do men rượu.

    – Sử dụng bài thuốc như tài liệu hướng dẫn dài ngày (liên tục như tác giả trình bày) gây cảm mạo phong hàn do tính hàn (mát) của cây thuốc.

    – Nhai lá tươi như theo tài liệu hướng dẫn có thể gây ngứa miệng, ngứa chân tay. Muốn tránh bị ngứa nên vò nát trước khi ăn.

    – Cây lược vàng chỉ có thể có tác dụng chữa một số bệnh như Thầy chỉ dạy trong 8 bài thuốc nói trên chứ không phải chữa bá bệnh.

    Bệnh nổi mẩn, ngứa: Vào hè cả nhà tôi, đặc biệt là các cháu nhỏ đều bị nổi mẩn ngứa, bà của các cháu dùng lá lược vàng cho các cháu nhai nuốt nước, bã xát vào những chỗ nổi mẩn ngứa 3 lần là khỏi hẳn (trước khi dùng bã để xát phải lau rửa chỗ ngứa cho sạch). Có lần đứa cháu ngoại (học sinh lớp 7) đang giờ học bị nổi mẩn ngứa khắp người. Về nhà bà ngoại cho cháu nhai lá lược vàng bã chà sát vào những chỗ nổi mẩn đỏ, cơn ngứa của cháu dịu hẳn rồi khỏi nhanh! Buổi chiều cháu lại đi học bình thường, không nổi ngứa nữa…

    Bệnh ho khan kéo dài:Các cháu nhà tôi vì không giữ ấm cổ trong những ngày rét lạnh, trước đây khi các cháu bị ho thường phải mua “bổ phế” hoặc “A-tô-xin” cho các cháu dùng, thường 2, 3 lọ mới khỏi. Lần này bà các cháu lại dùng lá lược vàng bắt các cháu nhai kĩ nuốt cả nước lẫn bã cũng 3, 4 lần là khỏi hẳn.

    Bệnh sưng chân răng và nhức răng: Những ngày đầu tháng 4 vừa qua, tôi bị sưng mộng răng, nhức nhối, má xưng như lên quai bị… Tôi đã dùng 3 lá lược vàng nhai kĩ nuốt nước, còn bã đẩy nhẹ vào chỗ chân răng đau ngậm. Một ngày tôi làm 3 lần như vậy (sáng, trưa, tối) trước lúc ăn cơm. Trước khi nhai xúc miệng nước muối pha loãng. Tôi làm như vậy 3 ngày liền, má hết xưng, chân răng không đau nhức nữa!

    Bệnh côn trùng cắn: Tôi lên vườn đi vào chỗ lá mục, bị con gì đốt vào cổ chân bị ngứa và có hiện tượng xưng tấy. Tôi được bà vợ ra chậu cảnh hái cho lá lược vàng bắt tôi nhai nuốt nước, lấy bã trà sát vào chỗ xưng tấy nhiều lần. Sớm sau ngủ dậy không đau nhức nữa, vầng đỏ cũng không còn..

    Công dụng của cây lược vàng

    Bọ rời leo: Thằng cháu tôi đêm ngủ bị con “bọ rời leo” làm da nổi phồng rộp gây ngứa khó chịu. Chúng tôi cũng dùng lá lược vàng bắt cháu nhai kĩ nuốt nước, còn bã chà xát lên chỗ nổi phồng rộp thấy khỏi ngứa ngay tức khắc, da khô thành vẩy rồi tự bong

    Để đáp ứng nhu cầu thông tin khoa học của nhân dân về khả năng sử dụng làm thuốc của cây lược vàng, tháng 9/2009, Bộ Y tế đã giao cho Viện Dược liệu chủ trì và TSKH. Nguyễn Minh Khởi làm chủ nhiệm đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu tác dụng sinh học và độc tính của cây lược vàng Callisia fragrans (Lindl.) Woods.” với mục tiêu đánh giá được độc tính cấp, bán trường diễn và một số tác dụng sinh học của lá và thân bò lược vàng. Sau 12 tháng thực hiện, đề tài đã được nghiệm thu cơ sở ngày 24/09/2010 và nghiệm thu chính thức ngày 04/01/2011. Kết quả của đề tài đã được công bố trên Tạp chí dược liệu, Hội nghị Khoa học lần thứ 11 của Viện Dược liệu (18/4/2011) và Hội nghị quốc tế Mékong Santé lần thứ 3 (10-12/5/2012).

    Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu đã giám định tên khoa học của các mẫu nghiên cứu thu tại Thanh Hóa, Hà Nội và Bắc Giang là Callisia fragrans (Lindl.) Woods., họ Commelinaceae (Thài lài). Các mẫu thử độc tính và tác dụng sinh học đã được điều chế theo cách gần tương tự như cách chế biến và sử dụng theo kinh nghiệm nhân dân. Liều thử các tác dụng dược lý trên động vật được tính dựa trên các liều hiện đang được sử dụng cho người: 30-120g (2-6 lá tươi)/ngày hoặc 6-24g (1-4 đốt) thân bò/ngày. Các thử nghiệm về độc tính và tác dụng sinh học đã được thực hiện tại Khoa Dược lý – Sinh hóa, Viện Dược liệu, Bộ môn Dược lý, Trường Đại học Y Hà Nội và Bộ môn Tế bào – mô – phôi và lý sinh, Trường Đại học Khoa học tự nhiên.

    Kết quả nghiên cứu về tác dụng sinh học và độc tính của cây lược vàng có thể tóm tắt như sau:

    – Lá và thân bò lược vàng đều là những dược liệu khá an toàn, liều dùng có khoảng cách xa so với liều độc. Tuy nhiên, không nên sử dụng lâu ngày, không sử dụng ở liều cao do có độc tính với gan, thận trên động vật thực nghiệm.

    – Lược vàng có 3 tác dụng khá nổi trội:

    + Tác dụng kháng khuẩn (với những chủng vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp)

    + Tác dụng tăng cường miễn dịch

    + Tác dụng chống oxy hóa

    Lược vàng có tác dụng chống viêm mạn, tác dụng giảm đau ngoại biên và ức chế một số dòng tế bào ung thư ở mức độ trung bình.

    – Lược vàng không có tác dụng giảm đau theo cơ chế thần kinh trung ương, không gây hạ huyết áp trên thực nghiệm và không có tác dụng trên hoạt tính của 2 enzym: xanthine oxidase (gây tăng acid uric) và lypoxygenase (xúc tác quá trình oxy hóa trong cơ thể).

    Giới thiệu về cây lược vàng

    Cây lược vàng bắt đầu được sử dụng làm thuốc ở Thanh Hóa cách nay khoảng hơn chục năm, dựa trên những tài liệu có xuất xứ từ Nga. Từ năm 2007 “cơn sốt lược vàng” bắt đầu bùng phát ở Thanh Hóa, sau đó lan truyền ra nhiều tỉnh và thành phố, từ Bắc chí Nam, cho tới ngày hôm nay, cơn sốt đó vẫn chưa hạ nhiệt. Hiện đang tồn tại hai quan điểm về tác dụng của vị thuốc này. Quan điểm thứ nhất cho rằng, lược vàng là một loại “thần dược”, có thể chữa trị rất nhiều loại bệnh tật, thậm chí cả một số bệnh thuộc loại nan y… Quan niệm thứ hai cho rằng tác dụng chữa bệnh của lược vàng chẳng có gì đặc biệt, thậm chí có người còn cho rằng, lược vàng chỉ là một loại cây cảnh, không thể coi đó là cây thuốc, vì không có tác dụng chữa bệnh… Vì vậy, trên thực tế, cây lược vàng có tác dụng gì? Để trả lời câu hỏi đó, tốt nhất có lẽ nên tìm hiểu tình hình sử dụng vị thuốc này ở Nga.

    Cây “lược vàng” có xuất xứ từ Trung và Nam Mỹ. Tên khoa học là Callisia fragrans (Lind), thuộc học Commelinaceace (thài lài), do nhà khoa học Mỹ R.E Woodson xác định từ năm 1942. Lược vàng bắt đầu được trồng làm cảnh ở Nga từ hơn 100 năm trước. Tại Nga, cây có tên thông dụng là “Dôlôtôi us” có nghĩa là “sợi râu vàng”. Nếu như ở nước ta, lược vàng còn được gọi bằng những tên khác như “lan vòi”, “cây bạch tuộc”, “trai lá phất dũ”, “giả khóm”… thì ở Nga, cây cũng có nhiều tên khác nhau, như “ka-li-di-a thơm”, “sâm nhà”, “vệ nữ”, “bác sĩ gia đình”… Một chi tiết đáng lưu ý là, tại Nga cây phát triển không được tốt như ở nước ta; nếu được chăm sóc tốt, cây mới ra hoa và mọc ra “dôlôtôi us” (sợi râu vàng).

    Nghiên cứu cơ bản

    Từ những năm giữa thế kỷ 20, một số nhà khoa học Mỹ và Canada đã phát hiện: những loài cây thuộc họ Commelinaceae (trong đó có cây lược vàng), chứa nhiều loại hoạt chất sinh học, có khả năng kiềm chế sự phát triển của các khối u. Ở Nga, các nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng dược lý của lược vàng được tiến hành tại Đại học Y khoa thành phố Irkyt, từ những năm 80, thế kỷ trước, dưới sự chỉ đạo của GS. Semenov, một nhà khoa học rất nổi tiếng. Kết quả nghiên cứu nhiều năm ở Irkyt cho thấy: Trong cây lược vàng có một số hoạt chất sinh học thuộc nhóm flavonoid và steroid thực vật. Ngoài ra, trong cây còn có sắt, đồng, crôm… những nguyên tố có tác dụng quan trọng đối với hoạt động sống của cơ thể. Hai chất thuộc nhóm flavonoid được phát hiện là: kvercitin và kempferol. Lvercitin có hoạt tính giống như vitamin P và là chất chống ôxy hóa, có tác dụng lợi tiểu và chống co giật. Có thể sử dụng trong điều trị dị ứng, chảy máu nội tạng, viêm thận, viêm khớp, cũng như một số bệnh tim mạch, mắt và nhiễm trùng, Kempferol có tác dụng làm tăng độ bền của mạch máu, an thần, chống viêm, lợi tiểu mạnh – giúp cơ thể bài tiết các chất độc hại ra ngoài. Có thể sử dụng để chữa trị các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh dị ứng, rối loạn chức năng bài tiết nước tiểu. Các steroid có trong thực vật được gọi là các fitosterol. Chúng có hoạt tính tương tự nội tiết tố sinh dục, còn có tác dụng diệt khuẩn, chống xơ vữa động mạch và kiềm chế sự phát triển của các khối u. Có thể ứng dụng trong điều trị một số dạng ung thư, cũng như các bệnh tuyến tiền liệt, bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa.

    Tuy nhiên, cùng với những tác dụng có lợi nói trên, các nhà khoa học Nga còn nhận thấy, lược vàng cũng là vị thuốc dễ gây tác dụng phụ, như gây tổn thương thanh quản, dị ứng nổi ban đỏ, phù nề tứ chi, phù toàn thân… Các phản ứng phụ đó hay gặp nhất ở những người có khả năng miễn dịch yếu và có cơ địa dị ứng. Chính những nhược điểm đó đã hạn chế việc mở rộng ứng dụng lược vàng trên lâm sàng. Quan điểm y học cho rằng: chỉ có thể sử dụng lược vàng để chữa bệnh sau khi được chuyên gia tư vấn. Có thể cũng vì vậy, trong các sách về y học dân gian Nga, các sách tra cứu hay các từ điển lớn về thảo dược ở Nga, xuất bản trong thời Liên Xô cũ đều không thấy đề cập đến vị thuốc này.

    Chữa bệnh bằng cây lược vàng như thế nào?

    Cây lược vàng có tác dụng chữa nhiều bệnh

    Ứng dụng thực tế

    Trong khi giới khoa học ở Nga còn đang do dự, thì lược vàng đã được các thầy thuốc thực hành sử dụng rộng rãi. Trên lâm sàng, lược vàng được sử dụng chữa các bệnh dạ dày – ruột, bệnh túi mật, lá lách; các bệnh đường hô hấp như ho, viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản; các bệnh đường tiết niệu; các bệnh ngoài da như viêm da, zona, chàm… Thuốc chế từ “lược vàng” có tác dụng giảm đau, chống nóng rát, giúp vết thương chóng lành… Ngoài ra, còn có tác dụng nhất định đối với ung thư, chống nghiện rượu và nghiện thuốc lá.

    Tại Nga, cây lược vàng hiện đang được ứng dụng rất rộng rãi. Do đó nếu lên mạng, vào một website tìm kiếm thông tin nào đó, gõ từ “dôlôtôi us” bằng tiếng Nga, bạn sẽ tìm thấy hàng chục tên sách và hàng trăm bài báo có nội dung liên quan tới vị thuốc này. Trong số các bộ sách, có một cuốn có số lượng phát hành rất lớn như “Lược vàng – Những đơn thuốc tốt nhất” của S.Anastasia; sách tra cứu “Lược vàng – từ A đến Z – những đơn thuốc thần kỳ”, “Lược vàng trong chữa trị căn bệnh thế kỷ” của V.Ogarkov; “Lược vàng và sex”, “Lược vàng – tất cả những điều đã biết và chưa biết” của A.Korzinova… Phần lớn các sách về lược vàng ở Nga đều do các thầy thuốc chuyên nghiệp, có bằng cấp, học vị đàng hoàng chắp bút. Trong số đó, cuốn “Thần thoại và sự thật về cây lược vàng” của GS. I.P.Neumưvakin… được xem như cuốn sách đầy đủ và khách quan nhất. Cùng với sách báo, các loại thuốc chữa bệnh, thực phẩm chức năng, với lược vàng là dược liệu chính, cũng đang xuất hiện ngày càng nhiều.

    Một điều cần nhấn mạnh là, tuy các thầy thuốc lâm sàng ở Nga coi lược vàng là một vị thuốc quý, nhưng họ không coi đó là “thần dược”. Thí dụ, tại địa chỉ www.callisia.org, chuyên giới thiệu về cách sử dụng lược vàng để chữa bệnh, các chuyên gia cũng đã cảnh báo (dịch nguyên văn): “Cần nhớ rằng, trên đời không tồn tại loại thuốc vạn năng và không có một phương tiện y học hiện đại hay y học dân gian nào có khả năng chữa khỏi tất cả các loại bệnh. Do đó, đối với các đơn thuốc dân gian, cần có một thái độ thận trọng; chỉ có thể chỉ định cho bệnh nhân một loại thảo dược nào đó, kể cả lược vàng, sau khi tư vấn với bác sĩ điều trị.

    Bản thân các thầy thuốc dân gian, những người đang ứng dụng và xây dựng các đơn thuốc từ cây lược vàng cũng nhận định: lược vàng không phải là phương tiện vạn năng. Tác dụng chữa bệnh của nó vẫn còn đang được tiến hành nghiên cứu. Vì vậy chưa có gì bảo đảm là lược vàng có thể chữa khỏi được hoàn toàn một bệnh nào đó”.

    Cần thận trọng khi dùng lược vàng

    Từ những thông tin về việc sử dụng lược vàng trong chữa bệnh ở Nga và những trường hợp chữa khỏi bệnh nhờ cây lược vàng mà một số tờ báo ở nước ta đã đăng tải, sơ bộ có thể nhận thấy: theo quan điểm của Đông y, lược vàng là thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, nhuận phế, tiêu viêm, hóa đàm, lợi thủy. Có thể sử dụng để chữa ho, viêm họng, sốt, viêm nhiễm tiêu hóa và tiết niệu; dùng ngoài giã đắp chữa trị vết thương, viêm nhiễm ngoài da. Tóm lại, tạm thời có thể xếp lược vàng vào loại “thuốc thanh nhiệt” của Đông y.

    Trong Đông y “thuốc thanh nhiệt” là loại thuốc được sử dụng nhiều nhất, do có tác dụng điều hòa và nâng cao sức chống bệnh của cơ thể; đối với nhiều loại bệnh nhiễm khuẩn, thậm chí nhiễm virut, thuốc thanh nhiệt có tác dụng điều trị trực tiếp, hoặc hỗ trợ rất tốt. Tuy nhiên, nếu sử dụng lâu dài, quá liều lượng hoặc không đúng bệnh, cũng có thể gây nên những tác dụng ngoài sự mong muốn, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ và người cao tuổi.

    Những năm gần đây, các chuyên gia Đông dược đã nhiều lần cảnh báo và mô tả khá tỉ mỉ những trạng thái bệnh lý, do lạm dụng các thuốc thanh nhiệt gây nên. Những bệnh lý đó, cũng được xếp loại vào nhóm “các biến chứng do thuốc”. Cụ thể, thuốc thanh nhiệt có thể dẫn tới 2 bệnh lý:

    Thứ nhất là chứng hậu (hội chứng) được Đông y gọi là “hao khí tổn dương” với những biểu hiện chủ yếu: Mệt mỏi, đầu choáng, mắt hoa, hoạt động mạnh một chút là đã vã mồ hôi, thở gấp, hụt hơi, buồn ngủ, tinh thần thiếu tập trung, khả năng tư duy giảm sút, chán ăn, đau bụng, tiêu chảy…

    Thứ hai là chứng hậu “thương âm hao dịch” với những biểu hiện chủ yếu: sáng thức dậy có cảm giác mệt mỏi, đầu choáng váng quay cuồng, mắt đỏ, bất chợt thấy tai ù; nằm ngủ thường ra mồ hôi trộm nhất là lúc vừa thiếp đi; miệng háo thích uống nước mát, tính tình biến đổi dị thường, hay cáu giận một cách vô cớ, ăn uống giảm sút, đại tiện táo, nước tiểu sẻn đỏ…

    Các triệu chứng kể trên không phải lúc nào cũng xuất hiện tất cả. Trên thực tế, tác dụng phụ của thuốc thanh nhiệt thường không rõ ràng, không điển hình, nên rất dễ bị người dùng bỏ qua. Vì vậy, khi sử dụng thuốc thanh nhiệt liều cao hoặc dùng lâu ngày, cần đặc biệt chú ý theo dõi, nếu thấy có những biến đổi khác thường về sinh lý cũng như tâm lý, cần dừng ngay thuốc.

    Khi dùng cây lược vàng để chữa bệnh, cũng cần chú ý tới những tác dụng phụ – “các biến chứng do thuốc”, như khi sử dụng thuốc thanh nhiệt.

    Thực ra, những tác dụng như thanh nhiệt, giải độc, sát khuẩn làm lành vết thương … không phải là những tác dụng “đặc hữu” – chỉ có ở cây lược vàng, những tác dụng đó, cũng có ở rất nhiều vị thuốc Nam quen thuộc khác. Lược vàng, nhiều khả năng cũng là một cây thuốc quý, tuy nhiên cũng không nên “sùng bái” quá mức.

    Dược sĩ Hưng


    giai-doc-gan-an-binh

    Giải Độc Gan An Bình

    Gan tốt – Sức khỏe tốt

    Xem chi tiết tại đây.

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    giai-doc-gan-an-binh

    Khách hàng nhận xét

    Khi sử dụng V-Sorento – Hỗ trợ chữa trị viêm đại tràng, các triệu trứng viêm đại tràng của tôi đã được cải thiện rõ rêt.
    Nguyễn Cường, 60 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
    Tôi rất yên tâm khi sử dụng sản phẩm của Dược An Bình. Từ khi sử dụng PHARZUBEST – Bổ sung vitamin và khoáng chất, sức khoẻ của tôi được cải thiện nhiều.
    Quang Trần
    Tôi đã sử dụng sản phẩm trà An Bình được một thời gian. Thực sự, sản phẩm rất tốt và tình trạng huyết áp thấp của em được cải thiện rõ rệt. Cám ơn Dược phẩm An Bình rất nhiều!
    Thị Hồng Duyên – Tân Yên, Bắc Giang