Vi khuẩn viêm gan C là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến bệnh viêm gan kinh niên tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Người ta ước đoán từ 1 đến 2% tổng số dân chúng toàn cầu, nghĩa là khoảng 100 triệu người đang bị viêm gan C. Với tỷ lệ 1.9%, nước Mỹ có khoảng 4 triệu bệnh nhân viêm gan C. Trong đó sẽ có từ 8 đến 10 ngàn người thiệt mạng mỗi năm.
NGUỒN GỐC CỦA VI KHUẨN VIÊM GAN C
Vi khuẩn viêm gan C là một loại vi khuẩn RNA kỳ lạ với khả năng thay đổi đặc tính di truyền một cách nhanh chóng và dễ dàng. Tuy đã lan tràn khắp nơi trên thế giới từ hơn hai ngàn năm qua, mãi tới những năm 1990, người ta mới khám phá ra sự hiện diện của vi khuẩn này.
Tuy những cơn dịch vàng da lây từ thức ăn và nước uống đã được mô tả từ nhiều năm trước Chúa Giáng Sinh, nhưng mãi đến cuối thế kỷ thứ 19, người ta mới bắt đầu hồ nghi là bệnh viêm gan cũng có thể lây qua máu và kim chích. Rồi hơn 3 phần tư thế kỷ trôi qua, với phát minh của một số phương thức thử nghiệm máu, người ta bắt đầu nhận diện được một loại vi khuẩn viêm gan mới. Qua sự khám phá này, họ tin rằng có 2 loại vi khuẩn gây ra bệnh viêm gan. Một loại lây qua thức ăn; đó là vi khuẩn viêm gan A. Một loại lây qua máu; đó là vi khuẩn viêm gan B. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, người ta nhận thấy điều này không hoàn toàn đúng, vì đa số bệnh nhân viêm gan không phải do vi khuẩn viêm gan A hoặc B gây ra. Vì thế danh từ “non-A, non-B hepatitis” ra đời vào đầu năm 1974, để diễn tả những trường hợp này.
Sau hơn một phần tư thế kỷ, với kỹ thuật nghiên cứu các phân tử cực kỳ nhỏ bé (molecular biologic techniques), các khoa học gia đã khám phá thêm một vi khuẩn viêm gan thứ ba. Ðó là vi khuẩn viêm gan C. Trong vòng một thời gian ngắn, họ đã phát họa được cơ cấu và hình thù của vi khuẩn viêm gan này một cách chi tiết với từng chất hóa học xếp dọc theo thứ tự trên chuỗi nhiễm thể RNA. Khám phá này là một điểm son lịch sử, dẫn đầu cho hàng loạt những khám phá quan trọng kế tiếp trong việc chữa trị bệnh viêm gan C. Song song với những cuộc nghiên cứu công phu và tiƯ miƯ về những bệnh nhiễm trùng khác, nhất là bệnh AIDS, sự hiểu biết về vi khuẩn viêm gan C và cách thức chữa bệnh tiếp tục tăng trưởng một cách rất khả quan.
Tế bào gan đang bị “tấn công” bởi vi khuẩn viêm gan C (VKVG-C), trong khi bạch huyết cầu đang “phản công”
ÐẶC TÍNH CỦA VI KHUẨN VIÊM GAN C
Vi khuẩn viêm gan C cực kỳ nhỏ bé, với đường kính là 50 nm, nên phải nhìn dưới kính hiển vi điện tử mới thấy được. Vi khuẩn được bảo vệ bởi một lớp vỏ kiên cố, nên phải nấu sôi lên 100 độ C trong vòng 5 phút mới có thể tiêu diệt được chúng. Khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn viêm gan C có khuynh hướng tàn phá và tiêu hủy gan của chúng ta một cách tương đối chậm chạp nhưng chắc chắn, đưa tới viêm gan (inflammation, hepatitis), xơ gan (liver fibrosis), chai gan (liver cirrhosis) và ung thư gan (liver cancer).
Trong lúc tăng trưởng, chúng có khả năng thay đổi đặc tính di truyền RNA của mình, hóa trang và biến dạng thành nhiều “hình thù” khác nhau. Khả năng biến hóa này đã giúp chúng thoát khỏi vòng kiểm soát chặt chẽ của hệ thống miễn nhiễm (immune system). Vì thế, sau một thời gian ngắn, cơ thể chúng ta, có thể chứa đựng hàng tỷ vi khuẩn viêm gan C với nhiều mã di truyền khác nhau, với những chiếc “áo giáp” khác nhau.
Sự biến đổi chất nhiễm thể trong hơn 2000 năm qua, đã tạo ra nhiều kiểu gene khác nhau (genotypes) với những tên như vi khuẩn viêm gan C số 1, vi khuẩn viêm gan C số 2, vi khuẩn viêm gan C số 3, v.v. Trong mỗi genotype này, người ta còn phân chia thành những tiểu loại (subtypes) a, b, c, d, e, v.v., dựa theo một số đặc tính chính yếu khác nhau. Vì thế vi khuẩn viêm gan C được phân loại thành viêm gan C 1a, 1b, 1c, 2a, 2b, 2c, 2d, 3a, 3b, 3c, 3d, 3f, 4a, 4b v.v. Khám phá này ban đầu chỉ dùng trong những cuộc khảo cứu, nhưng nay đã trở thành một lối thử máu vô cùng quan trọng trong quá trình chữa bệnh viêm gan C.
Trong các loại vi khuẩn viêm gan C, loại genotype số 1 chiếm tỷ lệ cao nhất trên thế giới nói chung và ở nước Mỹ nói riêng với 35% loại 1a và 35% loại 1b. Loại 1b cũng được tìm thấy nhiều nhất ở Âu châu, Nhật Bản cũng như Ðài Loan. Loại số 3 thường thấy ở Pakistan, Úc, Scotland. Loại số 4 ở Trung Ðông và Châu Phi cũng như South Africa. Loại số 6 tại Hồng Kông và Macau. Hơn 50% bệnh nhân Việt Nam đang được chữa trị bệnh viêm gan C trong phòng mạch của tôi thuộc loại 1a hoặc 1b. Phần còn lại thuộc loại số 6 hoặc số 7. Một số ít thuộc số 2/3. Nói một cách tổng quát, các loại genotypes đều nguy hiểm như nhau, nhưng vi khuẩn viêm gan C loại 2 và 3 dễ chữa nhất. Loại số 1, nhất là 1b khó chữa hơn cả.
CHÍCH NGỪA VIÊM GAN C ?
Như trình bầy ở trên, với khả năng biến đổi đặc tính di truyền bằng cách thay thế những chất hóa học trên nhiễm thể của mình, vi khuẩn viêm gan C đã thoát khỏi “mạng lưới phòng thủ” của hệ thống miễn nhiễm. Ðây cũng là lý do chính, mà cho tới nay, người ta vẫn chưa tìm được thuốc chích ngừa cho bệnh viêm gan C.
AI CÓ THỂ BỊ VIÊM GAN C ?
Vì đây là một bệnh truyền nhiễm (infectious disease), nên chúng ta ai ai cũng có thể bị. Bệnh có thể lây qua những trường hợp sau đây:
1) LÂY QUA MÁU :
Bệnh dễ lây nhất qua máu. Trước năm 1992, nhận máu (blood transfusion) là nguyên nhân chính đưa đến viêm gan C. Lúc bấy giờ y-khoa chưa có cách thử máu để truy tầm vi khuẩn viêm gan C, nên trong 200 đơn vị máu đã có ít nhất một túi máu không may bị ô nhiễm. Ngày nay, với các loại test chính xác và hiệu nghiệm, nhận máu trở nên an toàn hơn nhiều với tỷ lệ lây bệnh viêm gan C trong lúc nhận máu là 1 trên 100.000.
2) LÂY QUA DỤNG CỤ Y KHOA :
Vi khuẩn viêm gan C có thể xâm nhập vào cơ thể chúng ta qua kim chích, đồ cạo râu, lưỡi lam hoặc bàn chải đánh răng, xâm mình (tattoo), cạo gió (coin rubbing), lể (Skin Puncture), châm cứu (acupuncture) hoặc mổ xẻ với những dụng cụ y-khoa, kim chích không được khử trùng đúng cách.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn của những năm chiến tranh, cách thức khử trùng thô sơ của kim chích đã gây mưng mủ (abscess) một cách thường xuyên. Ngày nay với những phương pháp khử trùng tối tân hơn, lây bệnh qua các dụng cụ y khoa như trong lúc nhổ răng, châm cứu, mổ xẻ v.v. trở nên rất hiếm hoi, nếu không muốn nói là không còn nữa.
3) LÂY TỪ MẸ :
Lây bệnh từ mẹ qua bé sơ sinh trong lúc sanh đẻ có thể xẩy ra, với tỷ lệ trên dưới 5%. Sanh đẻ tự nhiên (vaginal delivery) hay giải phẫu lấy con (C-section) đều có tỷ lệ lây bệnh tương đương như nhau. Bệnh dễ lây hơn nếu chỉ số máu của người mẹ có hơn 2 đến 3 triệu siêu vi C trong mỗi một cc. Bệnh không lây qua sữa mẹ, nên không phải kiêng cữ trong việc cho con bú.
4) LÂY QUA ÐƯỜNG SINH LÝ:
Tuy bệnh viêm gan C có thể lây trong lúc giao hợp với người có bệnh, điều này hiếm khi xẩy ra, với tỷ lệ chưa đến 5%. Vì thế, cơ quan CDC cho rằng những vợ chồng chung thủy hoặc tình nhân gắn bó (monogamous patients) không cần kiêng cữ hoặc thay đổi đời sống tình dục. Những người “đào hoa” hơn với nhiều nhân tình khác nhau nên đeo bao cao su (condom) để tránh lây bệnh viêm gan C, cũng như các loại bệnh khác như hoa mai, giang liễu, AIDS, viêm gan B, v.v.
Ngoài ra, một số bệnh nhân tự nhiên bị lây bệnh mà không biết nguyên nhân từ đâu. Trong số này có khoảng 10% bệnh nhân viêm gan C cấp tính và 30% viêm gan C kinh niên. Người ta cho rằng trong những trường hợp này, bệnh nhân đã tiếp xúc với vi khuẩn viêm gan C trong lúc té ngã, trầy trụa hoặc đứt tay chân mà không hề hay biết. Tuy một số vi khuẩn viêm gan C được tìm thấy trong mồ hôi và nước bọt, ăn uống chung hoặc va chạm thể xác trong đời sống hằng ngày với bệnh nhân viêm gan C, không lấy gì là nguy hiểm.
TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN C :
Cũng như viêm gan A và B, bệnh nhân viêm gan C thường không có bất cứ một triệu chứng nào. Người ta chia ra làm 2 trường hợp: viêm gan cấp tính (acute) và viêm gan kinh niên (chronic).
1) VIÊM GAN C CẤP TÍNH (Acute Hepatitis):
Thông thường từ 7 đến 8 tuần sau khi bị lây bệnh, khoảng 30% bệnh nhân viêm gan C bỗng dưng cảm thấy hơi khó chịu như những cơn cảm cúm sơ sài. Bệnh không tấn công gan một cách dữ dội, nên gần như sẽ không ai thiệt mạng một cách “bất đắc kỳ tử” vì căn bệnh này. Một số bệnh nhân có thể bị nhức đầu, mệt mỏi, đau nhức khớp xương và bắp thịt. Nhiều khi họ cũng cảm thấy buồn nôn, khó chịu, đau bụng, tiêu chảy, ăn kém ngon, xuống ký. Ðôi khi bị sốt hoặc nổi ngứa. Khoảng 30% bệnh nhân viêm gan C da và mắt trở nên vàng (jaundice). Các triệu chứng này thường kéo dài từ 6 đến 8 tuần và từ từ thuyên giảm, rồi hoàn toàn biến mất sau một thời gian ngắn. Bấy giờ, bệnh có thể sẽ nằm vào giai đoạn a) “ngủ yên”, không hoạt động (dormant, less active), hoặc b) tiếp tục tăng trưởng (chronic active).
Cho tới nay, người ta vẫn chưa rõ, nguyên nhân và điều kiện nào sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến số phận của bệnh nhân viêm gan C. Nghĩa là ai sẽ được may mắn nằm trong trường hợp “ngủ yên” và ai sẽ tiếp tục bị bệnh viêm gan tàn phá cơ thể của mình. Nhưng một điều chắc chắn là khoảng 80 đến 90% bệnh nhân một khi bị lây bệnh viêm gan C mặc dầu sống rất khỏe mạnh, sẽ từ từ đi vào giai đoạn nguy hiểm hơn: viêm gan C kinh niên.
2) VIÊM GAN C KINH NIÊN (Chronic Active Hepatitis):
a) Triệu Chứng Sơ Khởi :
Mặc dầu gan mỗi ngày một yếu đi, đa số bệnh nhân trong thời gian này vẫn chưa có bất cứ một triệu chứng nào đáng kể. Chỉ khoảng 6% bệnh nhân viêm gan C mới có một vài triệu chứng tiêu biểu. Nhưng những triệu chứng này cũng rất mơ hồ và rất nhẹ, nên thường không được để ý tới. Triệu chứng thường xuyên nhất là mệt mỏi, thường vào xế chiều. Khả năng tập trung tư tưởng có thể giảm dần một cách tương đối nhanh chóng.
Một ít người cảm thấy đau lâm râm, nhoi nhói phần bụng trên dưới xương sườn bên phải hoặc buồn nôn, khó chịu, da nổi ngứa, đau khớp xương và bắp thịt. Nếu không được khám phá và chữa trị kịp thời, bệnh mỗi ngày một nặng hơn. Gan mỗi ngày một viêm hơn, đưa đến xơ gan, rồi chai gan.
b) Hậu Quả Lâu Dài :
Thông thường, sau một thời gian trung bình là 20 năm, gan bắt đầu bị xơ và từ từ biến qua chai. Trong một số trường hợp hiếm hoi hơn, thời gian chuyển hóa từ viêm đến chai có thể kéo dài hơn 50 năm. Tốc độ chai gan của mỗi cá nhân, vì thế, còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau. Quan trọng nhất là trạng thái sưng đỏ của tế bào gan, khi bệnh mới được khám phá. Khi xác nghiệm tế bào dưới kính hiển vi, người ta có thể ước đoán được thời gian cần thiết để tế bào gan sẽ đi từ viêm sang chai.
c) Yếu Tố và Ðiều Kiện Bất Lợi :
Nhiều dữ kiện khác nhau có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiến triển của bệnh viêm gan C. Vì thế bệnh có thể phát triển nhanh chóng hơn dự tính gấp nhiều lần. Những người bị viêm gan C sau khi nhận máu nhiễm khuẩn, sẽ bị chai gan nhanh hơn (thường từ 8 đến 14 năm sau khi bị lây bệnh). Có lẽ trong lúc nhận máu, cơ thể đã bị tấn công và xâm lấn một cách ồ ạt bởi hàng tỷ vi khuẩn vi viêm gan C cùng một lúc, nên gan bị viêm nặng hơn.
Rượu bia, nếu uống quá nhiều sẽ gây tổn thương tế bào gan, và gan sẽ bị chai nhanh hơn. Người viêm gan C kinh niên mà uống quá nhiều rượu bia, không khác gì như “châm dầu vào lửa”.
Một số thuốc khác nhau cũng có thể làm cho lá gan bị chai nhanh hơn. Vì thế, người viêm gan C nên rất thận trọng khi uống bất cứ một loại thuốc nào, ngay cả các loại thuốc cỏ cây bày bán trên thị trường mà không cần toa bác sĩ.
Gan cũng sẽ bị hư nhanh chóng hơn nếu cùng một lúc bệnh nhân bị nhiễm trùng bởi nhiều loại vi khuẩn viêm gan khác nhau. Ðây là trường hợp khi bệnh nhân bị cùng một lúc nhiều loại bệnh nhiễm trùng khác nhau như viêm gan B, viêm gan C, viêm gan D hoặc bệnh HIV-AIDS.
May mắn thay, không phải ai bị viêm gan C cũng sẽ bị chai gan. Và trên lý thuyết chỉ khoảng 5% bệnh nhân viêm gan C mới bị thiệt mạng bởi căn bệnh này. Tuy thế, với 2% tổng số dân chúng toàn cầu, viêm gan C đã trở thành một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất trong thế kỷ 21. Riêng tại Mỹ, sẽ có khoảng 8 đến 10 ngàn người thiệt mạng mỗi năm.
BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH VIÊM GAN C:
Ngoài đặc tính cơ bản của bệnh truyền nhiễm (infectious disease), bệnh viêm gan C có thể gây ra một số triệu chứng điển hình của những bệnh liên quan đến hệ thống miễn nhiễm (auto-immune diseases). Cơ thể người bị viêm gan C có thể tích trữ một số chất đạm (protein) và kháng thể khác nhau nhiều hơn bình thường. Khi những chất hóa học này thể trở nên quá thặng dư, chúng sẽ gây ra một số bệnh tật như đau nhức khớp xương, mệt mỏi/yếu đuối, nổi mề đay, suy thận cũng như lymphoma. Một số bệnh về nội tiết (endocrinology) cũng có thể bị ảnh hưởng một cách trực tiếp với bệnh viêm gan C. Trong đó có các bệnh của tuyến giáp trạng (thyroid diseases), bệnh tiểu đường (diabetes mellitus), bệnh Sjogren (gây ra khô miệng, khô môi v.v.).
CÁCH ÐỊNH BỆNH & CHỮA BỆNH VIÊM GAN C
Phương thức định bệnh và chữa bệnh viêm gan C tiến bộ nhanh chóng và thay đổi không ngừng. Từ một căn bệnh mà chỉ vài năm trước đây, người ta vẫn thường lắc đầu, bó tay và xem như là không thuốc chữa, bệnh viêm gan C ngày nay có thể được chữa trị một cách tương đối dễ dàng. Với ứng dụng của thuốc PEG-Interferon, đa số bệnh nhân viêm gan C, ngày nay, có thể hoàn toàn hết bệnh trong một thời gian lâu dài. Ðiều này, một lần nữa nói lên sự quan trọng trong việc truy tầm bệnh viêm gan C trong cộng đồng người Việt chúng ta, tại hải ngoại cũng như quốc nội.
Cho đến nay, thử máu định kỳ hằng năm vẫn là phương pháp thường xuyên nhất trong việc khám phá bệnh viêm gan C. Khi thử máu tổng quát, phân hóa tố ALT có thể tăng lên cao, cho biết gan có thể bị viêm. Và từ đó người y sĩ sẽ tiếp tục tìm kiếm thêm những nguyên nhân đưa đến bệnh viêm gan. Sau đây là những thí nghiệm căn bản mà quý vị sẽ gặp trong lúc được chữa trị bệnh viêm gan C:
1) THỬ MÁU:
a) Phân hóa tố ALT:
Ðây là một chất hóa học tìm thấy khắp nơi trong cơ thể. Nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau có thể làm chất ALT tăng cao một cách bất bình thường. Trong đó viêm gan (hepatitis) là nguyên nhân chính. Tôi vẫn thường so sánh phân hóa tố này như là khói bốc lên từ một căn nhà đang bị cháy; mà “nhà” là lá gan của chúng ta. Nếu khói (chất ALT) bốc lên ngùn ngụt, nhà đang cháy to, gan bị viêm nặng. Nếu khói chỉ lưa thưa, , nhà không cháy lớn, gan viêm sơ sơ. Tiếc thay, điều này không giản dị như vậy. Mặc dầu “không có lửa, sao có khói?”, đôi khi khói không phải từ căn nhà đang bị cháy, mà bốc lên từ các “bếp than”, “lò củi”. Ðó là trường hợp của gan KHÔNG bị viêm, mà chất ALT lại rất cao. Hơn nữa, nếu “nhà” không có khói, đâu có nghĩa là nhà không bị cháy. Có thể lứa đang âm ỉ bên trong nên chưa bộc phát ra ngoài. Hoặc nhà nay đã rụi thành tro, nên không còn gì để cháy (Ðó là trường hợp khi gan đã chai mà chất ALT hoàn toàn không thay đổi). Người ta nhận thấy, khoảng 30% những bệnh nhân viêm gan C, tuy năng chất của gan (ALT/AST) không hề tăng cao, gan của họ vẫn bị viêm kinh niên nếu được thử nghiệm dưới kính hiển vi. Vì thế, ngày nay một số trường phái có khuynh hướng sinh thiết lá gan cho tất cả bệnh nhân đã và đang mắc bệnh viêm gan C (nghĩa là khi thử máu HCV-antibody trở nên dương tính), bất chấp kết quả cao hay thấp của chất ALT/AST.
b) BILIRUBIN :
Ðây là chất cặn bã từ những hồng huyết cầu già nua bị phế thải trong chu kỳ tuần hoàn của máu. Chất mật vàng này, thông thường được biến chế bởi các tế bào gan trước khi theo phân và nước tiểu ra ngoài (Mầu vàng của phân và nước tiểu là do chất bilirubin gây nên). Trong một số bệnh liên quan đến gan, chất bilirubin này tăng cao. Khi cao hơn 3.5 đến 4 mg/dl, da và mắt có thể bị vàng (jaundice).
c) HCV-AB
Viết tắt từ chữ Hepatitis C Virus-Antibody. Nếu kết quả thử máu này dương tính, nghĩa là chúng ta đang bị bệnh viêm gan C. Chất kháng thể này được chế tạo từ những bạch huyết cầu của hệ thống miễn nhiễm, nhưng không đủ khả năng tiêu diệt vi khuẩn viêm gan C.
d) QUANTITATIVE HCV-RNA
Ðây là một test máu quan trọng, để theo dõi sự tiến triển của bệnh trong lúc đang được điều trị. Với một phương pháp đặc biệt, người ta sẽ đếm tổng số vi khuẩn viêm gan C trong một cc máu trước và trong khi chữa bệnh. Thuốc được xem là không hiệu lực, nếu số lượng không thuyên giảm sau 3 tháng chữa bệnh.
e) GENOTYPES
Thời gian trị liệu bệnh viêm gan C sẽ tùy thuộc vào kết quả của cuộc thử máu này. Nếu genotype là loại số 1, bệnh nhân cần chữa khoảng một năm. Nếu là loại số 2 hoặc 3, chỉ cần chữa 6 tháng mà thôi. Những loại khác có thể chữa từ 6 đến 12 tháng, tùy theo từng trường hợp.
f) ALFA-FETO-PROTEIN
Ðây là một chất đạm có thể tăng cao trong trường hợp khi gan biến thành ung thư. Nhưng trong một số điều kiện hoặc bệnh tật khác nhau, chất hóa học này cũng có thể cao hơn bình thường. Người bị viêm gan kinh niên vì bất cứ một lý do nào, cần phải theo dõi chất hóa học này một cách thường xuyên.
g) TIỂU CẦU (thrombocytes)
Hay còn được gọi là platelets, là những mảnh/khúc nhỏ từ tế bào “mẹ” megakaryocyte nằm trong tủy xương. Khi bị chảy máu, các tiểu cầu này sẽ bài tiết ra một số chất hóa học cần thiết trong việc đông đặc máu. Người bị chai gan thường có ít tiểu cầu hơn người thường.
h) PT/aPTT
Viết tắt từ chữ Prothrombin Time và activated Partial ThromboplastinTime. Hai loại test này đo thời gian cần thiết để máu đông đặc lại. Khi năng chức của gan giảm dần, thời gian cô đọng máu trở nên dài hơn, và bệnh nhân dễ bị chảy máu hơn.
2) SIÊU ÂM GAN (Ultrasonography hoặc Ultrasound Study):
Phương pháp này cho ta một khái niệm về hình thù và kích thước của gan. Nếu gan bị chai, gan có thể sẽ nhỏ hơn bình thường. Mặt ngoài của gan có thể bị lồi lõm. Phương pháp thử nghiệm này cũng có thể nhận diện được một số bệnh tật khác, như bướu hoặc ung thư (tumor), sạn trong túi mật (gallstone), gan đóng mỡ (fatty liver). Với ứng dụng của Doppler, sự di chuyển của máu qua lá gan cũng có thể được nhận diện một cách khác chính xác. Ngoài ra, siêu âm bụng cũng là một phương pháp rất tốt, để xem bệnh nhân có bị cổ trướng (ascites) hay không.
Siêu âm gan có thể nhận diện được hình thù của lá gan, nhưng không cho biết là gan có bị viêm hay không?
3) SINH THIẾT (Liver biopsy):
Ðể thử nghiệm dưới kính hiển vi, tế bào gan sẽ được lấy ra bằng một kim rất nhỏ, đâm giữa xương sườn vào thẳng lá gan. Một ít thuốc tê sẽ được dùng trong phương pháp này nên bệnh nhân chỉ cảm thấy hơi thôn thốn, khó chịu chứ không đau đớn cho lắm. Ðể giảm thiểu những biến chứng không may (complications), chỗ kim chích sẽ được hướng dẫn bằng máy siêu âm.
Sinh thiết làm rất nhanh, chưa đầy mười phút từ lúc siêu âm, tiêm thuốc tê đến lúc sinh thiết. Sau đó, bệnh nhân sẽ được quan sát tại nhà thương trong vòng 6 đến 8 tiếng trước khi về nhà nghỉ ngơi. Ðây là một phương pháp tương đối an toàn. Một vài biến chứng như chảy máu, lủng phổi, ruột v.v. có thể xẩy ra, nhưng thường hiếm hoi, và có thể chữa trị được. Thí nghiệm này tuy tốn kém nhưng có thể mang lại cho người y sĩ nhiều dữ kiện quan trọng trong việc định bệnh và chữa bệnh viêm gan.
Sau đây là bản tường trình về diễn tiến chai gan dựa vào quan sát mô học (histology) của khảo nghiệm tế bào gan:
- Nguy cơ bị chai gan (%)
- Kết quả sinh thiết Sau 5 năm Sau 10 năm Sau 20 năm
- Hơi bị viêm (mild) 7% 7% 7%
- Viêm khá nặng (moderate) 25% 44% 95%
- Viêm nặng (severe) 68% 100% 100%
- Xơ Gan (bridging fibrosis) 58% 100% 100%
Nếu dựa theo bản thống kê kể trên, một người bệnh với kết quả khảo nghiệm gan là viêm khá nặng sẽ có nguy cơ bị chai gan là 25% sau 5 năm, 44% sau 10 năm và 95% sau 20 năm. Nếu người đó mới 30 tuổi khi được khám phá ra bệnh, bệnh nhân đó chắc chắn sẽ bị chai gan trước 50 tuổi. Mặt khác, 60 đến 70% bệnh nhân viêm gan nặng hoặc bị sơ gan sẽ bị chai gan trong vòng 5 năm. Ðiều này cho thấy sự quan trọng trong việc truy tầm vàợ khám phá ra bệnh trong những giai đoạn đầu tiên.
Dược sĩ Hưng
Giải Độc Gan An Bình
Gan tốt – Sức khỏe tốt
Xem chi tiết tại đây.
Bài viết liên quan
- Điều trị thoái hóa khớp với liệu pháp hay
- U xơ cổ tử cung và một số thông tin…
- Những điều cần biết về chứng nóng gan
- Phòng ngừa táo bón cho trẻ trong độ tuổi đi…
- Điều cần biết về bệnh Viêm loét dạ dày
- Nguyên nhân nào khiến trẻ bị thiếu cân?
- MỘT SỐ LOẠI THỰC PHẨM HỖ TRỢ CẢI THIỆN THỊ…
- Những vitamin và chất khoáng quan trọng nhất cho não
- Nguyên nhân khiến phụ nữ bị rụng tóc và ngứa…
- Cứng khớp do thiếu canxi