HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN: 1900545562 (Từ: 8:00 - 17:00)

    Các bệnh khác

    Nguyên nhân và cách giảm nguy cơ đột tử

    Trong dân gian chúng ta hay có câu nói “Mới thấy đó mà đã chết đó” để diễn tả sự ra đi của một người cách nhanh chóng, đột ngột. Đó chính là "Đột tử", hiện nay đột tử xuất hiện với tần suất ngày càng nhiều và xảy ra cả ở nhóm người trẻ tuổi.

    NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH LÀM GIẢM NGUY CƠ ĐỘT TỬ

    1. LÀ BỆNH LÝ TIM MẠCH

    Một trong những nguyên nhân thường gây ra đột tử là do bệnh lý tim mạch. Khi đột tử xảy ra, thường không có các dấu hiệu báo trước mà rất thường gặp ở những người có bệnh lý về tim mạch từ trước đó như nhồi máu cơ tim, rối loạn nhịp tim như nhịp nhanh thất hay rung thất. Sự khởi phát của nhịp nhanh thất hoặc rung thất nhanh chóng làm tim ngừng đập và thường sẽ đưa đến tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời.

    Những biểu hiện thường gặp của cơn nhồi máu cơ tim điển hình là đau ngực trái dữ dội, xảy ra khi người bệnh gắng sức, cơn đau kéo dài khoảng 15 – 30 phút. Khởi đầu đau ở ngực trái sau đó cơn đau lan lên cổ, hàm dưới bên trái, mặt trong cánh tay trái, đôi khi đau ngay thượng vị làm cho người bệnh dễ nhầm tưởng với bệnh đau dạ dày. Cơn đau tăng lên khi vận động và giảm đi nếu nghỉ ngơi hay dùng thuốc nitroglycerin ngậm dưới lưỡi. Đôi khi cơn đau không rõ ràng, nhất là ở người có bệnh đái tháo đường, người lớn tuổi, Khi đó, người bệnh chỉ cảm nhận rằng bị  ngộp thở, nặng ngực. Triệu chứng đi kèm thường là vã mồ hôi, khó thở, mệt nhiều, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực.

    2. XƠ VỮA MẠCH MÁU 

    Xơ vữa mạch máu dẫn đến đột tử

     Xơ vữa mạch máu dễ dẫn đến đột tử 

    Hầu hết người bệnh đột tử do tim là trước đó đã xảy ra nhồi máu cơ tim trong khoảng thời gian từ vài tuần đến vài tháng, đôi khi là vài năm mà người bệnh không biết, hay đã biết và mặc dù đã được điều trị kịp thời nhưng đột tử vẫn có thể xảy ra.

    Nếu tổn thương ít thì cơ tim có thể lành sau một thời gian nhưng chúng để lại một vết sẹo vĩnh viễn, vết sẹo này của tim có thể trở nên không ổn định “điện” và sự không ổn định “điện” này có thể gây nên rối loạn nhịp tim và đe dọa tính mạng người bệnh. Những rối loạn nhịp này thường xảy ra đột ngột, không hề có triệu chứng báo trước và người bệnh có thể bị ngưng tim đột ngột mặc dù đã được điều trị đúng theo hướng dẫn của bác sĩ.

    Nhìn chung nguy cơ dài hạn của tử vong sau bệnh lý tim mạch trên một người đã được điều trị ổn định là khoảng 1 – 2% và nguy cơ cao nhất khoảng 20% xảy ra ở những người đã từng bị ngưng tim nhưng đã được cứu sống.

    Nguy cơ tương đối cao ở những người bệnh đã bị nhồi máu cơ tim diện rộng và để lại sẹo lớn trên cơ tim. Một trong những phương pháp dùng để đánh giá sẹo tốt hay không là siêu âm, trong đó khảo sát xem chức năng tống máu của tim hay còn được gọi là phân suất tống máu có bình thường không (bình thường là từ 50% trở lên). Nếu sẹo càng lớn thì phân suất tống máu càng kém, nếu trên 40% thì nguy cơ tử vong ít hơn, nếu dưới 30% nguy cơ cao hơn nhiều.

    Nguy cơ đột tử sau bệnh lý tim mạch có thể được làm giảm đáng kể nhờ tuân thủ sự chỉ dẫn và phương pháp điều trị của bác sĩ là dùng thuốc điều trị ức chế bêta và ức chế men chuyển, cũng như thuốc statin. Các thuốc trên làm giảm nguy cơ đột tử nhờ làm giảm cơ hội phát triển suy tim và đau tim tái phát. Nếu người bệnh thuộc diện có nguy cơ cao mặc dù đã được điều trị bằng thuốc có thể được xem xét để cấy một máy phá rung.

    3.  THAY ĐỔI MỘT SỐ LỐI SỐNG GIẢM NGUY CƠ ĐỘT TỬ

    Ngoài những yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành mà ta không thay đổi được như tuổi, giới tính, tiền sử gia đình thì cần phải  thay đổi những yếu tố nguy cơ để đề phòng đột quỵ như:

    – Không hút thuốc lá: thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc bệnh động mạch vành tăng lên gấp hai lần người không hút.

    không hút thuốc lá

    Cai thuốc lá để giảm nguy cơ đột tử

    – Tập thể dục: những người không luyện tập thể dục thường xuyên sẽ có tuổi thọ thấp hơn những người luyện tập thường xuyên mỗi ngày trên 30 phút.

    – Huyết áp: ở người bệnh tăng huyết áp, thành mạch máu thường bị xơ vữa nên rất kém đàn hồi. Do đó để tống máu đi, tim phải tốn công nhiều hơn. Hậu quả là cơ tim sẽ dày lên và cứng hơn, sự cố gắng liên tục sẽ làm tim suy yếu. Do áp lực tác động lên thành động mạch tăng cùng với sự xơ vữa, mạch máu dễ bị vỡ làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim.

    – Đái tháo đường: theo một nghiên cứu, hơn 65% số người đái tháo đường bị tử vong vì bệnh tim mạch.

    – Béo phì: người béo phì dễ bị tăng cholesterol máu, tăng huyết áp và là nguy cơ của bệnh tim mạch.

    – Rối loạn mỡ trong máu: ở người trưởng thành, nếu nồng độ cholesterol trong máu tăng cao quá 10% giá trị bình thường thì nguy cơ bị các biến chứng tim mạch sẽ tăng thêm 30%.

    – Stress: có tác dụng làm tăng nhịp tim và tăng huyết áp. Người bệnh tim mà liên tục chịu ảnh hưởng của stress thì tần số cơn đau thắt ngực tăng lên.

    – Uống quá nhiều rượu bia: làm tăng huyết áp, tăng triglicerid máu, gây nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ.                       

    ( Theo Suckhoedoisong)

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    giai-doc-gan-an-binh

    Khách hàng nhận xét

    Khi sử dụng V-Sorento – Hỗ trợ chữa trị viêm đại tràng, các triệu trứng viêm đại tràng của tôi đã được cải thiện rõ rêt.
    Nguyễn Cường, 60 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
    Tôi đã mua Canxi King cho cháu nhà tôi uống. Sản phẩm rất tốt và dễ uống.
    Nguyễn Minh, Khu D8, Thành Công, Đống Đa, Hà Nội
    Khi dùng Grathozi – Trị nấm âm đạo, bệnh của tôi đã thuyên giảm và khỏi hẳn sau 7 ngày.
    Thu Hương