HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN: 1900545562 (Từ: 8:00 - 17:00)

    Các bệnh khác

    Bệnh giãn phế quản

    1. Thế nào là giãn phế quản?
     
    Là tình trạng giãn không hồi phục của cây khí phế quản, có thể GPQ khu trú chỉ ở một vùng của phổi, tuy nhiên, phần lớn các trường hợp GPQ là giãn lan tỏa, bị cùng lúc khắp các vị trí lòng phế quản ở cả hai bên. Do lòng phế quản bị giãn rộng, các lông chuyển ở đường hô hấp bị tổn thương, do vậy ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc vận chuyển đờm và các chất tiết đường hô hấp ra ngoài. Khi chất tiết, dịch đường hô hấp bị ứ đọng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm khuẩn đường hô hấp, quá trình nhiễm khuẩn này lại gây tổn thương niêm mạc đường thở, làm cho tình trạng GPQ ngày một nặng thêm.
     
    2. Các biểu hiện của bệnh
     
    Các biểu hiện toàn thân:
     
    Đa số trường hợp giãn phế quản toàn trạng không có gì thay đổi. Bệnh được phát hiện khi bị bệnh khác như: cúm, sởi, ho gà hoặc viêm phế quản mủ, có một số trường hợp bị giang mai bẩm sinh, những dị dạng bẩm sinh khác, một số trường hợp có rối loạn nội tiết, chậm dậy thì, sinh dục phụ kém phát triển, cường giáp trạng. Nói chung triệu chứng toàn thân phụ thuộc vào mức độ nguyên nhân và biến chứng của bệnh. Có thể có sút cân, thiếu máu..
     
    Bệnh giãn phế quản
     
    Giãn phế quản
     
    Các triệu chứng của giãn phế quản:

    Nhiều đờm: là dấu hiệu gợi ý chẩn đoán, những bệnh nhân điển hình, có thể thấy khạc đờm rất nhiều, mỗi ngày có thể khạc ra tới 500ml, thậm chí có trường hợp khạc ra đến 1 lít đờm mủ. Đờm có thể có mùi hôi, thối, màu xanh, vàng hoặc đục như mủ.
     
    Ho ra máu: ho, khạc ra máu lẫn đờm, lượng máu có thể ít (dưới 50ml) hoặc nhiều (> 200ml). Có trường hợp máu có thể ộc ra, gây tắc nghẽn đường thở, làm bệnh nhân khó thở dữ dội và có thể tử vong.
     
    Khó thở: đây cũng là biểu hiện khá thường gặp, một số bệnh nhân có thể có khó thở với tiếng cò cử, làm nhầm tưởng với bệnh hen phế quản.
     
    Đau ngực: là dấu hiệu sớm của nhiễm khuẩn phổi ở vùng GPQ.
     
    Móng tay hình mặt đồng hồ (hình vòm) hoặc phía cuối của đốt cuối ngón tay có hiện tượng to ra (ngón tay dùi trống): là một dấu hiệu điển hình có thể gặp ở một số người bệnh GPQ. Khi khám phổi có thể nghe thấy ran ẩm, ran nổ và rì rào phế nang giảm.
     
    Bệnh nhân có sốt.
     
    3. Nguyên nhân gây giãn phế quản
     
    Cấu trúc phế quản bị dị tật bẩm sinh: GPQ lan tỏa cộng với viêm xoang, cộng với phủ tạng đảo lộn (vị trí của tim chuyển sang bên phải) do rối loạn hoạt động của lông tuyến phế quản.Khuyết tật hoặc không có sụn ở phế quản nên phế quản phình ra khi hít vào, xẹp xuống khi thở ra.
     
    Do viêm hoại tử ở thành phế quản: GPQ sau nhiễm khuẩn phổi như lao, viêm phổi vi khuẩn, virut, sởi, ho gà, do dịch dạ dày hoặc máu bị hít xuống phổi, hít thở khói hơi độc (khí amoniac), do nhiễm khuẩn phế quản tái diễn.
     
    Do bệnh xơ hóa kén: chiếm tỷ lệ 50% các trường hợp GPQ.
     
    Do phế quản lớn bị tắc nghẽn: lao hạch phế quản, hoặc dị vật rơi vào phế quản ở trẻ em, u phế quản hoặc sẹo xơ gây chít hẹp phế quản sau khi bị giập vỡ ở phế quản lớn do chấn thương lồng ngực.
     
    Do tổn thương xơ hoặc u hạt co kéo thành phế quản: lao phổi xơ, lao xơ hang, áp-xe phổi mạn tính, bệnh phế nang viêm xơ hóa.
     
    Rối loạn thanh lọc nhày nhung mao
     
    Rối loạn cơ chế bảo vệ phổi do suy giảm miễn dịch: HIV, bạch cầu…
     
    4. Cách điều trị và phòng bệnh
     
    Bệnh giãn phế quản không thể điều trị khỏi hoàn toàn, các bệnh nhân thường chỉ đến viện mỗi khi có đợt cấp, việc điều trị tại bệnh viện do vậy chính là điều trị đợt bội nhiễm của giãn phế quản. Khi ở nhà, các bệnh nhân cần thường xuyên vỗ rung ngực và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa đợt cấp
     
    Các điều trị giãn phế quản bao gồm:
     
    Dùng kháng sinh mỗi khi có đợt bội nhiễm của giãn phế quản.
     
    Các tiêu chí đánh giá đợt bội nhiễm của giãn phế quản bao gồm:
     
    – Ho khạc đờm tăng
     
    – Khạc đờm mủ, màu xanh, hoặc màu vàng
     
    – Bệnh nhân giãn phế quản có hội chứng nhiễm trùng rõ sau khi đã loại trừ nhiễm trùng do căn nguyên khác
     
    Những trường hợp không có các dấu hiệu nêu trên, nhưng có ho máu cũng là chỉ định dùng kháng sinh
     
    – Thời gian dùng kháng sinh thường từ 10-15 ngày. Những trường hợp giãn phế quản rất nặng, thời gian dùng kháng sinh có thể kéo dài hơn, thậm chí tới 1 tháng.
     
    Dẫn lưu đờm
     
    Là liệu pháp điều trị rất quan trọng, có thể coi có tầm quan trọng như dùng kháng sinh, nhưng bệnh nhân lại hầu như không mất tiền. Các biện pháp dẫn lưu đờm thường hay dùng bao gồm:
     
    Hướng dẫn cho bệnh nhân cách ho, khạc đờm sâu và vỗ rung lồng ngực, kết hợp dẫn lưu tư thế hàng ngày. Tùy theo vị trí giãn phế quản mà lựa chọn tư thế cho phù hợp với nguyên tắc vùng giãn phế quản được đặt ở vị trí cao nhất. Vùng giãn phế quản ở phía sau: bệnh nhân được đặt nằm xấp, vùng giãn phế quản ở phía trước: bệnh nhân được đặt nằm ngửa… Sau đó dùng hai bàn tay khum lại, vỗ đều vào ngực bệnh nhân. Kết hợp rung và lắc ngực. Mỗi lần làm kéo dài 15-20 phút, ngày làm từ 2-3 lần. Việc vỗ rung và dẫn lưu tư thế tiếp tục được duy trì tại nhà cho bệnh nhân. Nên đóng ghế vỗ rung để việc vỗ rung được thuận tiện hơn. 
     
    Soi phế quản ống mềm nếu có. Trong quá trình soi tiến hành hút dịch phế quản làm xét nghiệm vi sinh vật, bơm rửa lòng phế quản, giải phóng đờm mủ bít tắc
     
    Nếu có hội chứng xoang phế quản (bệnh nhân giãn phế quản có kèm và viêm đa xoang mạn tính): có thể cho bệnh nhân uống erythromycine 10 mg/kg/ngày, chia 2 lần, kéo dài từ 6 – 24 tháng nếu bệnh nhân không bị các tác dụng phụ của thuốc. Không dùng đồng thời với Theophyllin hoặc các thuốc cùng nhóm xanthin do gây xoắn đỉnh.
     
    Khi bệnh nhân có khó thở, nghe phổi có ran rít, ngáy, bệnh nhân thường được dùng thêm các thuốc giãn phế quản dùng đường uống hoặc khí dung hoặc kết hợp cả hai. Các thuốc có thể được dùng bao gồm:
    Thuốc giãn phế quản: salbutamol, terbutaline, thuốc kháng cholinergic, theophylline, bambuterol…
     
    Khi bệnh nhân có ho máu:
     
    Bệnh nhân thường được dùng kháng sinh, dùng thuốc cầm máu, an thần. Trường hợp ho máu nặng, bệnh nhân có thể cần được thở oxy, đặt nội khí quản hoặc nội soi phế quản để hút máu đọng. Truyển máu khi có thiếu máu.
     
    Những trường hợp ho máu không điều trị hiệu quả với thuốc cần được chỉ định chụp động mạch phế quản và xét nút tắc động mạch phế quản gây chảy máu.
     
    Phẫu thuật: 
     
    Chỉ định cắt phân thuỳ, thuỳ hoặc cả bên phổi cho những trường hợp giãn phế quản khu trú; giãn phế quản có ho máu nặng hoặc ho máu tái phát..
     
    Cần nhấn mạnh GPQ là bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn được. Việc điều trị GPQ chủ yếu nhằm ngăn ngừa, điều trị các đợt bùng phát do bội nhiễm. Tuy nhiên, người bị GPQ không nên bi quan, nhiều bệnh nhân có cuộc sống và sinh hoạt gần như người khỏe mạnh do tuân thủ chặt chẽ những hướng dẫn của thầy thuốc.
     
    Phòng bệnh
     
    Cần tuân thủ đầy đủ các hướng dẫn điều trị của thầy thuốc: Tiêm vaccin phòng cúm hàng năm và tiêm vaccin phòng phế cầu; Vỗ rung ngực hàng ngày: nên tiến hành vỗ rung ngực đều đặn, bạn nên hỏi bác sĩ xem tư thế vỗ rung nào là phù hợp nhất với bạn (đó là tư thế để phần phổi bị GPQ ở chỗ cao nhất). Khi vỗ rung, khum bàn tay và vỗ đều lên lưng vùng có GPQ bên dưới. Lực vỗ đều, kết hợp hít sâu, thở mạnh sau vỗ rung để tống đờm ra ngoài. Mỗi lần vỗ rung kéo dài 15 – 20 phút. Mùa lạnh nên giữ ấm cổ, giữ môi trường trong nhà luôn sạch, thoáng, khô. Khi đi đường nên đeo khẩu trang để tránh bụi. Cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ hệ hô hấp, răng miệng. Nếu bị viêm mũi, xoang cần điều trị dứt điểm, tránh biến chứng sang GPQ. 
     

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    giai-doc-gan-an-binh

    Khách hàng nhận xét

    Tôi đã sử dụng sản phẩm trà An Bình được một thời gian. Thực sự, sản phẩm rất tốt và tình trạng huyết áp thấp của em được cải thiện rõ rệt. Cám ơn Dược phẩm An Bình rất nhiều!
    Thị Hồng Duyên – Tân Yên, Bắc Giang
    Khi sử dụng V-Sorento – Hỗ trợ chữa trị viêm đại tràng, các triệu trứng viêm đại tràng của tôi đã được cải thiện rõ rêt.
    Nguyễn Cường, 60 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
    Khi dùng Grathozi – Trị nấm âm đạo, bệnh của tôi đã thuyên giảm và khỏi hẳn sau 7 ngày.
    Thu Hương