Viêm túi mật là biến chứng thường gặp nhất khi sỏi và giun đũa chui vào túi mật, đường mật. Khi có sỏi đường mật nhất là sỏi cổ túi mật hoặc giun chui đường mật sẽ gây tắc nghẽn đường mật, muối mật kích thích gây tổn thương thành túi mật, lúc đó vi khuẩn sẽ xâm nhập vào trong túi mật và phát triển gây ra viêm túi mật cấp. Sự căng của túi mật gây ra thiếu máu kèm viêm nhiễm có thể gây hoại thư túi mật. Một số hiếm trường hợp viêm túi mật không do tắc nghẽn như do chấn thương bụng vùng túi mật, trong đái tháo đường, viêm nút quanh động mạch, nhiễm khuẩn huyết.
1. Phân loại bệnh viêm túi mật
Bệnh viêm túi mật được chia làm hai loại: không sỏi và có sỏi. Bệnh có thể gây các biến chứng nặng như suy tuần hoàn, chảy máu các tạng, viêm phúc mạc, có lỗ rò vào đường tiêu hóa…
– Viêm túi mật không có sỏi mật
Người bệnh thường đau đột ngột ở vùng dưới sườn phải lan lên bả vai phải hoặc khoảng giữa hai xương bả vai; sốt cao trên 39 độ C, nôn và thường ỉa chảy, đôi khi có triệu chứng tắc ruột. Khám bụng thấy vùng dưới sườn phải có phản ứng đau và co cứng, có khi lan vào giữa bụng và lan xuống hố chậu phải. Có thể nắn thấy một khối u nằm dưới sườn phải như quả cà tím. Ở người già và gầy có thể thấy u nổi hẳn lên dưới da bụng (túi mật căng to).
Trường hợp viêm thủng túi mật, thành bụng co cứng mạnh, mỗi lúc một tăng, đau lan rộng khắp bụng kèm theo bí trung tiện, nấc, rối loạn tiểu tiện. Nếu hoại tử túi mật rộng thì nắn bụng bệnh nhân đau dữ dội và toàn thân suy sụp nhanh, người tím tái, thân nhiệt hạ, mạch nhanh, da vàng. Khi nhiễm độc nặng thì đau có thể giảm nhưng lại xảy ra suy tuần hoàn và có thể chảy máu ở các tạng.
– Viêm túi mật có sỏi mật
Nếu là loại sỏi cholesterol, bệnh nhân đau tức sau bữa ăn vài giờ, nhất là khi đi lại bị xóc nhiều. Ở phụ nữ, khi có kinh nguyệt, đau tăng lên, thường về ban đêm. Những cơn đau có thể gián đoạn vài ba ngày một lần, kèm theo rối loạn tiêu hóa: đầy bụng, bụng trướng, nấc, đau rát bỏng như đau dạ dày nhưng không có chu kỳ.
Sỏi gây ra viêm túi mật
Nhiều bệnh nhân bị sỏi sắc tố mật do đường tiêu hóa hay do giun). Sỏi do nhiễm khuẩn gây nên, phần lớn là do giun đũa chui lên đường mật. Chúng được cấu tạo chủ yếu bởi trứng giun hay mảnh xác giun.
Viêm túi mật cấp nếu không được điều trị kịp thời sẽ gây những biến chứng nặng như viêm mủ túi mật, thủng mật gây đau quanh túi mật hay phúc mạc mật; thấm mật phúc mạc, lỗ rò vào đường tiêu hóa.
Viêm túi mật có thể điều trị bằng nội khoa hoặc phải mổ ngay. Mổ mang lại kết quả tốt trên những người khỏe, mới bị viêm lần đầu. Những trường hợp này điều trị nội khoa cũng tốt. Nếu điều trị nội khoa không kết quả thì bắt buộc phải mổ.
Để phòng bệnh viêm túi mật do sỏi cholesterol, cần chú ý vấn đề dinh dưỡng, tránh các thức ăn làm tăng tỷ lệ cholesterol trong máu. Đối với sỏi sắc tố mật, nên đề phòng giun đũa chui lên đường mật, nhất là ở trẻ em.
2. Nguyên nhân và biểu hiện của bệnh
Khi có sỏi đường mật, nhất là sỏi cổ túi mật hoặc giun chui đường mật sẽ gây tắc nghẽn đường mật, muối mật kích thích gây tổn thương thành túi mật, lúc đó vi khuẩn sẽ xâm nhập vào trong túi mật và phát triển gây ra viêm túi mật cấp.
Bệnh gây ra do vi khuẩn chiếm đến 50-85% trường hợp. Vi khuẩn thường gặp là E. coli, Klebsiella, Streptococcus nhóm D, Staphylococcus, và Clostridium.
Thường khởi phát bởi cơn đau quặn gan, sau đó diễn tiến đưa đến nhiễm trùng và tắc mật. Có khoảng 60-70% bệnh nhân với cơn đau đầu tiên tự lui bệnh. Tuy nhiên những cơn đau kéo dài về sau sẽ đưa đến đau lan tỏa cả vùng hạ sườn phải, lan đến vùng bả vai phải, vai phải.
Đau tăng khi ho và hít sâu, bệnh nhân thường nôn và chán ăn; vàng da chỉ xuất hiện khi có viêm phù nề hoặc hạch chèn ép vào đường dẫn mật chính nên thường không có hoặc đến muộn.
3. Chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán
Bệnh cần được chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời để phòng những biến chứng có thể dẫn tới tử vong.
Chẩn đoán xác định
Dựa vào lâm sàng: đau HSP, sốt, sờ thấy túi mật to.
Dựa vào các xét nghiệm: X quang, siêu âm, soi ổ bụng.
Chẩn đoán phân biệt
Áp xe gan: đau, sốt, gan to và đau, rung gan (+) Ludlow (+)
Viêm gan siêu vi trùng: sốt, đau, vàng da, khi vàng da hết sốt. Xét nghiệm ezym gan tăng (SGPT và SCOT tăng gấp 5 đến 10 lần).
Viêm đường dẫn mật: Đau, sốt, vàng da, khi vàng da vẫn sốt.
Điều trị
Điều trị nội khoa:
Nghỉ ngơi, truyền dịch để nuôi dưỡng và cân bằng nước điện giải. Dùng các thuốc giảm đau, giãn cơ trơn như nospa hay sparmaverin. Kháng sinh là thuốc đầu tay, hiện nay có rất nhiều kháng sinh có thể lựa chọn với ưu tiên là các kháng sinh có phổ tác dụng trên vi khuẩn gram âm như quinolon thế hệ 2 và kháng sinh có tác dụng trên các vi khuẩn kỵ khí như nhóm imidazole. Tùy theo tình trạng, tùy theo mức độ và tùy theo điều kiện thực tế mà bác sĩ sẽ cho chỉ định điều trị hợp lý.
Nhóm imidazole (metronidazole, tinidazole, ornidazole): thuốc có tác dụng tốt với các nhiễm khuẩn do các vi khuẩn kỵ khí, nhất là nhiễm khuẩn tiêu hóa và giá thành rẻ nhưng khi dùng thuốc kéo dài cần lưu ý vì có thể gặp tác dụng phụ như chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị, nổi mày đay… các dấu hiệu này thường nhẹ và hết sau khi cơ thể đào thải hết. Đặc biệt đối với bệnh nhân có tiền sử rối loạn huyết động học khi sử dụng dài ngày loại thuốc này nhất thiết phải được theo dõi công thức bạch cầu. Thuốc này không được dùng cho phụ nữ có thai 3 tháng đầu hoặc trong thời kỳ cho con bú.
Trong nhóm quinolon thế hệ 2, ciproflocacin hoặc peflacin là thuốc được lựa chọn đầu tiên trong điều trị bệnh lý nhiễm khuẩn tiêu hóa do giá thành rẻ, hiệu quả cao. Thuốc hấp thu nhanh và dễ dàng qua đường tiêu hoá, sinh khả dụng khoảng 70 – 95%. Thức ăn và các thuốc kháng acid làm chậm hấp thu thuốc. Phân bố rộng khắp các mô và dịch cơ thể ít qua hàng rào máu não ở người bình thường nhưng khi màng não bị viêm thì xâm nhập tốt hơn. Qua được nhau thai và sữa mẹ. Tuy nhiên, khi dùng thuốc có một số tác dụng không mong muốn có thể xảy ra như rối loạn tiêu hoá như buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy; gây đau nhức xương khớp, kém phát triển xương khớp nhất là ở tuổi đang phát triển; ngoài ra có thể có các biểu hiện khác như nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, có trường hợp kích động, động kinh nhất là khi dùng cùng với theophylin, tăng bạch cầu ưa acid, giảm bạch cầu lympho, giảm bạch cầu đa nhân, giảm tiểu cầu, thiếu máu.
Trong trường hợp bệnh nặng cần sử dụng phối hợp kháng sinh và dùng bằng đường tiêm, thường phối hợp thêm với cephalosporin thế hệ 3 như cefotaxim, ceftriazon hoặc cefuroxim. Ngoài ra cần chú ý đến nhiễm các vi khuẩn kị khí, do đó cần phối hợp thêm metronidazol hoặc clindamycin (dalacin).
Điều trị ngoại khoa:
Mổ cấp cứu: Trong trường hợp không đáp ứng với điều trị nội khoa mà tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng hoặc có biến chứng ngoại khoa như túi mật hoại tử, thấm mật phúc mạc và viêm phúc mạc mật. Hiện nay thường mổ túi mật qua đường nội soi.
Trong trường hợp viêm túi mật hoại tử cũng bắt đầu là viêm túi mật cấp do sỏi hoặc không nhưng sau đó do thiếu máu và hoại tử thành túi mật, do các vi khuẩn sinh hơi kị khí. Tử vong loại này thường cao hơn, do vậy trong những trường hợp này cần mổ sớm cho bệnh nhân và phối hợp với hồi sức kháng sinh thích hợp.
Mổ phiên: Thường sau một đợt điều trị nội khoa để ổn định nhiễm trùng, nhất là ở người già có bệnh tim mạch, đái tháo đường để chuẩn bị bệnh nhân được tốt hơn.
4. Chế độ dinh dưỡng khi bị viêm túi mật
Khi bị viêm túi mật cấp tính, cần để cho túi mật nghỉ ngơi bằng cách loại bỏ hoặc giảm bớt các chất béo trong chế độ ăn và cả chất protid vì chúng làm cho túi mật tăng co bóp. Chế độ ăn chỉ nên có glucid như nước đường, nước quả, nước rau, cho thêm bột ngũ cốc, khoai nghiền. Nên ăn nhạt, nhiều chất xơ để chống táo bón, có thể cho ăn sữa đã tách bơ.
Trong trường hợp bị viêm túi mật hoặc đường mật mạn tính, bệnh nhân thường có triệu chứng rối loạn tiêu hóa, cần áp dụng một chế độ ăn nương nhẹ chức năng mật, tương tự như chế độ ăn nương nhẹ chức năng gan, cụ thể là hạn chế chất béo. Người bị viêm túi mật và đường mật mạn tính mỗi ngày chỉ nên ăn thịt một lần, dùng loại thịt trắng và nạc, không có mỡ. Dùng thịt tươi, nấu đơn giản. Đạm thực vật (đậu, đỗ) nên ăn dưới dạng nghiền nát, ninh nhừ. Với các thức ăn giàu glucid, nên dùng nhiều vì dễ tiêu, không ảnh hưởng xấu đến mật, không dùng chocolate, ca cao, các thức ăn có trộn thêm trứng và bột (ví dụ bánh ngọt) vì gây khó tiêu.
Bài viết liên quan
- Điều trị thoái hóa khớp với liệu pháp hay
- U xơ cổ tử cung và một số thông tin…
- Những điều cần biết về chứng nóng gan
- Phòng ngừa táo bón cho trẻ trong độ tuổi đi…
- Điều cần biết về bệnh Viêm loét dạ dày
- Nguyên nhân nào khiến trẻ bị thiếu cân?
- MỘT SỐ LOẠI THỰC PHẨM HỖ TRỢ CẢI THIỆN THỊ…
- Những vitamin và chất khoáng quan trọng nhất cho não
- Nguyên nhân khiến phụ nữ bị rụng tóc và ngứa…
- Cứng khớp do thiếu canxi