HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN: 1900545562 (Từ: 8:00 - 17:00)

    Kiến thức giới tính

    Chương 15 : Rối Loạn Tình Dục và Cách Chữa Trị

    Các rối loạn tình dục là gì? Đâu là nguyên nhân của các rối loạn đó? Liệu pháp tình dục là gì? Chúng có tác dụng như thế nào? Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta hãy hướng sự chú ý của mình vào chương này,

     Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người

    Tác giả : Bác Sĩ George D. Zgourides, Thạc Sĩ Christie S. Zgourides.

    Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang  

    CHƯƠNG 15 : RỐI LOẠN TÌNH DỤC VÀ CÁCH CHỮA TRỊ

    Nhóm đầu tiên đề cập đến các rối loạn tình dục – các vấn đề mãn tính và chu kỳ phản ứng tình dục.

    CÁC RỐI LOẠN TÌNH DỤC

    Rối loạn tình dục (sexual disorder) xuất hiện khi một kích thích tình dục nhất định phù hợp không gây nên phản ứng tình dục như mong đợi. Đặc biệt những rối loạn chức năng tình dục (sexual dysfunctions) có liên quan đến sự không hoạt động mãn tính ở khả năng phản ứng lại có hiệu quả với các kích thích tình dục của một cá nhân. Những rối loạn này là mãn tính, nó khiến cho cá nhân không thể đạt được sự thỏa mãn trong các quan hệ tình dục sau khi đã cố gắng đi cố gắng lại với lòng momg muốn, và người bạn tình sẵn sàng khéo dài thời gian. Các bác sĩ chuẩn đoán và chữa trị những rối loạn này chỉ ra tình trạng rối loạn của bệnh nhân cụ thể nào đó là do yếu tố sinh học và/hay yếu tố tâm lý. Các nhóm rối loạn tình dục bao gồm: các rối loạn ham muốn tình dục (sexual desire disorders), các rối loạn hưng phấn tình dục (sexual arousal disorders), các rối loạn cực khoái (orgasm disorders), các rối loạn gây đau khi quan hệ (sexual pain disorders),và các rối loạn tình dục “không thuộc những nhóm trên” (sexual dysfunction “not otherwise specified”).

    Các rối loạn ham muốn tình dục

    Các rối loạn ham muốn tình dục liên quan đến giai đoạn ham muốn của hệ thống phản ứng tình dục. Có nghĩa là có vấn đề với hoạt động ham muốn tình dục của cá nhân hoặc tần suất của hoạt động ham muốn tình dục của cá nhân. Mức độ hứng thú tình dục, hay còn gọi là dục tình (libido), của các cá nhân, các cặp vợ chồng, và ở các hoàn cảnh khác nhau là khác nhau. Đây là lý do tại sao lại rất khó để xác định đâu là mức độ “bình thường” cũng như thế nào là mức độ hứng thú tình dục quá cao hay quá thấp. Bởi thế, các bác sĩ chuẩn đoán, coi một người là có ham muốn tình dục thấp căn cứ vào việc xem xét các yếu tố như tuổi tác, và bối cảnh, bẳng cách hỏi xem cô ta/anh ta có cảm thấy thỏa mãn đối với vấn đề tình dục không. Tuy quá trình chuẩn đoán này có thể không chính xác vì một số người có các kỳ vọng vô lý về việc thế nào thì được coi là bình thường và về việc họ nên hoạt động như thế nào. Các rối loạn ham muốn tình dục bao gồm rối loạn giảm ham muốn tình dục (hypoactive sexual desire disorder) và rối loạn ác cảm tình dục (sexual aversion disorder).

    Rối loạn giảm ham muốn tình dục. Một người bị rối loạn giảm ham muốn tình dục (hypoactive sexual desire disorder) (thường được gọi là có ham muốn tình dục thấp (low sexual desire) hayham muốn tình dục bị ức chế (inhibited sexual desire) trải qua sự thiếu hụt mãn tính hay không có những tưởng tượng về tình dục và ham muốn hoạt động tình dục. Nam giới hay phụ nữ bị rối loạn giảm ham muốn tình dục có rất ít hay không có hứng thú đối với các hoạt động tình dục, và họ thường không khởi xướng hay đáp lại sự khởi xướng liên quan đến các hoạt động tình dục của bạn tình. Vì một người có ham muốn tình dục trong khi người kia lại không có nên sự rối loạn giảm ham muốn tình dục có thể dẫn đến các cảm giác áp lực và mất mát đối với cả hai người. Điều trị bệnh này liên quan đến việc giúp đỡ người bệnh nhận định và vượt qua những xung đột, lo lắng và bực tức liên quan đến tình dục và mối quan hệ của mình.

    Rối loạn ác cảm tình dục. Căm ghét cực độ, tránh các tiếp xúc liên quan đến bộ phận sinh dục và các hoạt động tình dục là sự thể hiện của rối loạn ác cảm tình dục (sexual aversion disorder). Người bị rối loạn ác cảm tình dục thường có cảm giác sợ hãi, thậm chí bị ám ảnh bởi các hoạt động và các tình huống liên quan đến tình dục. Giống với những người bị rối loạn giảm ham muốn tình dục, người bị rối loạn ác cảm tình dục cũng không khởi xướng hay đáp lại sự khởi xướng liên quan đến tình dục của bạn tình, và họ cũng tránh tất cả các tình huống có liên quan đến tình dục. Rối loạn này phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới. Điều trị bệnh này liên quan đến việc giúp bệnh nhân xoá bỏ những lo lắng liên quan đến tình dục của mình bằng cách xác định và vượt qua những xung đột tình dục nằm dưới.

    Những rối loạn hưng phấn tình dục

    Các rối loạn hưng phấn tình dục (sexual arousal disorders) nói đến những vấn đề thuộc giai đoạn hưng phấn của phản ứng tình dục. Nói cách khác là có vấn đề xảy ra với khả năng hưng phấn và sẵn sàng đối với hoạt động tình dục của cá nhân. Các rối loạn hưng phấn tình dục bao gồm: rối loạn hưng phấn tình dục ở phụ nữ (female sexual arousal disorder) và rối loạn dương cương ở nam giới (male erectile disorder).

    Rối loạn hưng phấn tình dục ở phụ nữ. Phụ nữ mắc chứng rối loạn hưng phấn tình dục (female sexual arousal disorder) có ham muốn các hoạt động tình dục nhưng lại không thể trải nghiệm những thay đổi về mặt thể chất cần thiết để có được các khoái cảm tình dục. Nhìn chung, khi người phụ nữ có hưng phấn tình dục, sẽ có chất bôi trơn được hình thành trên thành âm đạo để tạo điều kiện cho sự xâm nhập của dương vật. Nếu không có sự xuất hiện của chất bôi trơn âm đạo này thì việc giao hợp sẽ gây đau đớn, khó khăn hoặc không thể thực hiện được. Thiếu hưng phấn tình dục do kích thích tình dục không hiệu quả, chẳng hạn như bỏ qua các hành động sexplay, không liên quan gì đến chứng rối loạn hưng phấn tình dục.

    Điều trị rối loạn hưng phấn tình dục ở phụ nữ liên quan đến việc giúp đỡ người phụ nữ vượt qua những ức chế tình dục, những nhận thức tiêu cực, cảm giác tội lỗi, xấu hổ, lo lắng, sợ hãi về việc thể hiện tình dục, hay sự bực tức đối với người bạn tình. Bác sĩ trị liệu cũng có thể gợi ý cô cách gây hưng phấn và tự kích thích bản thân (phương pháp này gọi là huấn luyện thủ dâm (masturbation training), phương pháp này sẽ được đề cập đến ở phần sau của chương này), hoặc gợi ý cô và bạn tình thực hiện các bài tập tạo khoái cảm không đòi hỏi khác nhau (phương pháp này gọi là tập trung cảm giác (sensate focus), cũng được đề cập ở phần sau) trước khi có quan hệ tình dục.

    Rối loạn dương cương ở nam giới. Thường được biết đến dưới tên gọi bất lực (impotence) (nghĩa đen là “không có sức mạnh”), rối loạn dương cương ở nam giới (male erectile disorder) nói đến việc không có khả năng mãn tính đạt được và/hoặc duy trì dương vật cương cứng để khởi động và hoàn thành các hoạt động tình dục. Nam giới mắc chứng rối loạn dương cương có ham muốn hoạt động tình dục nhưng không thể đạt tới hoặc không thể duy trì sự cương cứng đủ lâu để bắt đầu hay kết thúc việc quan hệ tình dục. Nếu như anh ta chưa bao giờ cương cứng được dương vật thì anh ta đã mắc chứng rối loạn dương cương suốt đời (lifelong erectile disorder), còn nếu không phải vậy thì anh ta bị chứng rối loạn dương cương mắc phải (acquired erectile disorder). Ở chứng rối loạn dương cương mắc phải, có sự khác biệt giữa bất lực tạm thời và sự suy giảm cương cứng liên quan đến tuổi tác. Hầu hết các trường hợp rối loạn dương cương ở nam giới là thuộc chứng rối loạn dương cương mắc phải.

    Sự cương cứng không phải là một hiện tượng hoặc được cả hoặc mất hết (hoặc cương hoàn toàn, hoặc mềm oặt), nó cũng không phải là điều nhất thiết cần đối với việc làm tình. Một số nam giới vẫn có thể có quan hệ tình dục mà chỉ cần cương cứng một phần. Những người khác đạt được sự cương cứng toàn bộ ở những thời điểm này nhưng không đạt được sự cương cứng toàn bộ ở thời điểm khác. Nhiều nam giới bị rối loạn dương cương vẫn là những người bạn tình tốt; họ có thể còn trở nên đặc biệt điêu luyện trong việc kích thích bạn tình bằng dương vật mềm oặt, kích thích bộ phận sinh dục của bạn tình bằng tay hoặc thực hiện quan hệ tình dục bằng miệng để bù đắp cho sự thiếu khả năng cương cứng dương vật của mình.

    Khi rối loạn dương cương ở nam giới là do yếu tố sinh học thì việc điều trị có liên quan đến việc sử dụng thuốc và/hay lắp ghép bộ phận giả (prosthesis) (được đề cập ở phần sau). Khi rối loạn dương cương là do yếu tố tâm lý thì cần sử dụng phương pháp tâm lý trị liệu, giúp người bệnh giảm nhẹ những áp lực và lo lắng liên quan đến khả năng tình dục của mình.

    Rối loạn tình dục

    Các rối loạn cực khoái

    Đặc trưng cơ bản của các rối loạn cục khoái (orgasm disorders) là sự trục trặc trong giai đoạn cực khoái của phản ứng tình dục. Cực khoái có thể xuất hiện quá nhanh, chỉ đôi khi mới xuất hiện, xuất hiện với cường độ yếu, hay xuất hiện chậm, hoặc hoàn không xuất hiện – đặc điểm phổ biến ở đây là không thể kiểm soát được phản xạ cực khoái tự nhiên. Các rối loạn cực khoái bao gồm rối loạn cực khoái ở phụ nữ (female orgasmic disorder), rối loạn cực khoái ở nam giới (male orgasmic disorder), và xuất tinh sớm (premature ejaculation).

    Rối loạn cực khoái ở phụ nữ. Cũng được biết đến dưới tên anorgasmia, rối loạn cực khoái ở phụ nữ (female orgasmic disorder) được định nghĩa là sự trì hoãn hoặc không xuất hiện cực khoái sau khi xuất hiện kích thích tình dục đã đến mức độ đủ. Phụ nữ bị rối loạn cực khoái có ham muốn tình dục, có hưng phấn tình dục nhưng lại không lên được đến đỉnh. Phản ứng tình dục của cô không tiến hơn được qua giai đoạn bình ổn.

    Giống với rối loạn hưng phấn tình dục ở phụ nữ, điều trị rối loạn cực khoái cũng liên quan đến việc giúp người phụ nữ vượt qua thái độ hay cảm giác tiêu cực, tự chuốc lấy thất bại liên quan đến các hoạt động tình dục. Khi nhận thức của người phụ nữ về cơ thể và các cảm giác của mình tăng lên thì cô sẽ vượt qua được sự lo lắng và sẽ gỡ bỏ được những ức chế của mình. Ngoài bài tập tập trung cảm giác và huấn luyện thủ dâm thì bác sĩ trị liệu cũng có thể gợi ý người phụ nữ và bạn tình của cô sử dụng phương pháp điều chỉnh lại có tên là diễn tập bắc cầu (bridge maneuver). Ở đây người phụ nữ thực hiện một loạt các bước tình dục dần dần – từ cực khoái nhờ thủ dâm, đến cực khoái nhờ kích thích bằng tay của bạn tình, đến cực khoái nhờ giao hợp.

    Một hiện tượng khá phổ biến ở nhiều phụ nữ là giả vờ đạt được cực khoái. Giả vờ đạt được cực khoái là một quyết định có chủ ý mà không cần trao đổi. Có nhiều lý do để người phụ nữ giả vờ là đã đạt được cực khoái, nhưng họ thường làm như vậy để tránh gây tổn hại đến cảm giác của người bạn tình hay để duy trì một chuẩn mực “thể hiện” nhất định khi quan hệ tình dục. Lừa dối bạn tình theo cách đó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Không biết rằng bạn tình giả vờ đạt được cực khoái, người kia sẽ lại tiếp tục làm giống với lần đầu tiên mà ở lần đó người bạn tình giả vờ đạt được cực khoái.

    Rối loạn cực khoái ở Nam giới. Rối loạn cực khoái ở nam giới (male orgasmic disorder) (thường được gọi là xuất tinh chậm (retarded ejaculation), là sự không có khả năng đạt được cực khoái và xuất tinh sau sự kích thích tình dục đủ ở nam giới. Người nam giới cảm thấy khó hoặc không thể lên đến đỉnh, thậm chí anh ta có sự cương cứng và có thể thủ dâm hay đưa dương vật vào giao hợp trong vòng một tiếng đồng hồ hoặc hơn. Rối loạn cực khoái ở nam giới thường khác với tình trạng được biết đến dưới tên xuất tinh ngược (retrograde ejaculation), mà ở tình trạng này tinh dịch của nam giới được xuất vào bàng quang thay vì đưa ra ngoài cơ thể nhờ dương vật.

    Điều trị rối loạn cực khoái ở nam giới liên quan đến việc điều chỉnh lại phản xạ cực khoái tự nhiên của bệnh nhân và giúp anh ta vượt qua những xung đột tình dục của bản thân. Một phương pháp hiệu quả đi kèm với việc điều trị là sử dụng phương pháp diễn tập bắc cầu. Người nam giới từng bước một học cách xuất tinh một mình, sau đó xuất tinh trước mặt bạn tình, và cuối cùng là xuất tinh vào âm đạo của bạn tình. Ở hầu hết các trường hợp, sự ức chế của nam giới sẽ biến mất ngay sau khi anh ta xuất tinh được vài lần vào trong âm đạo của bạn tình. Thật thú vị khi một số nam giới bị rối loạn cực khoái cũng giả vờ là mình đạt được cực khoái, anh ta làm vậy để che dấu các vấn đề của mình hay nhằm duy trì danh tiếng “con ngựa chiến” của mình.

    Xuất tinh sớm. Ở trường hợp xuất tinh sớm (premature ejaculation), nam giới xuất tinh trước khi bản thân mình và người bạn tình cùng đạt được sự thoả mãn tình dục. Vấn đề ở đây là sự không có khả năng duy trì và tái diễn để đưa vào hợp lý, kiểm soát có chủ ý đối với phản ứng xuất tinh tự nhiên khi có hoạt động tình dục. Để định nghĩa thế nào là kiểm soát “hợp lý” thì các bác sĩ phải xem xét nhiều yếu tố khác nhau như tuổi của người nam giới, tần số quan hệ tình dục trung bình, và tính lạ thường của tình huống. Vấn đề ở đây là cần phải giải quyết khả năng kiểm soát sự xuất tinh của nam giới, chứ không phải là số lượng thời gian trôi qua trước khi anh ta lên đến đỉnh.

    Điều trị xuất tinh sớm liên quan đến việc trợ giúp người nam giới trong việc vượt qua những vấn đề liên quan đến tình dục, học cách dự đoán khi nào thì lên đến đỉnh, và điều chỉnh lại phản ứng xuất tinh tự nhiên. Liên quan đến việc điều chỉnh phản ứng xuất tinh tự nhiên, có hai phương pháp phổ biến áp dụng cho việc điều trị là phương pháp dừng lại-bắt đầu (stop-start) và phương pháp siết chặt (squeeze)(hai phương pháp này sẽ được trình bày ở phần sau của chương này).

    Các rối loạn gây đau khi quan hệ

    Các đau đớn liên quan đến hoạt động tình dục chính là đặc điểm chủ yếu của các rối loạn gây đau khi quan hệ tình dục (sexual pain disorders), đặc biệt là hai rối loạn dyspareunia và chứng co đau âm đạo (vaginismus).

    Dyspareunia. Những đau đớn dai dẳng, xảy ra từng đợt ở bộ phận sinh dục trước, trong và sau khi quan hệ tình dục được gọi là dyspareunia. Tình trạng này xuất hiện ở cả nam giới và phụ nữ, nó có thể xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào trong chu kỳ phản ứng tình dục. Nam giới có thể thấy đau dương vật cương cứng lúc đưa vào, phụ nữ có thể thấy nóng rát âm đạo hay bị chuột rút ở vùng chậu khi dương vật đưa vào. Tuy nhiên rối loạn này thường xảy ra phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới. Điều trị dyspareunia liên quan đến việc điều chỉnh và xóa bỏ những nguyên nhân bên trong gây ra những rối loạn này, xem xem đó là do yếu tố sinh học hay tâm lý, Không có một phương pháp điều trị thống nhất và tốt nhất cho rối loạn dyspareunia.

    Chứng co đau âm đạo. Đôi khi được coi là dạng đặc biệt của rối loạn dyspareunia ở nữ giới, chứng co đau âm đạo (vaginismus) liên quan đến những co rút và co thắt của các cơ ở vùng ngoài âm đạo. Những co thắt này có thể gây đau, nó thường gây trở ngại đối với việc giao hợp bằng cách không cho dương vật thâm nhập vào trong âm đạo. Ở nhiều trường hợp phụ nữ mắc chứng co đau âm đạo, cô ta hoàn toàn vẫn có các phản ứng tình dục, trừ trong khi giao hợp. Người phụ nữ và bạn tình của mình có thể hưởng thụ các dạng thú vị khác của hoạt động tình dục miễn là không tiến tới việc giao hợp.

    Chiến lược điều trị thông thường đối với chúng co đau âm đạo là giúp người phụ nữ vượt qua những xung đột về tình dục của mình và điều chỉnh lại các cơ xung quanh lỗ âm đạo để chúng chấp nhận các vật thể có kích cỡ ngày càng tăng. Ở hầu hết các trường hợp, dương vật có thể được đưa vào một khi người phụ nữ cảm thấy thoải mái hơn với hoạt động tình dục của mình và quen hơn với sự thâm nhập.

    Những rối loạn tình dục không thuộc các nhóm đã được đề cập ở trên

    Không phải những rối loạn tình dục nào cũng rơi vào các nhóm đã được phân loại rõ ràng, được chuẩn đoán “đen hay trắng”. Không có gì phải nghi ngờ, có rất nhiều vấn đề có thể xảy ra liên quan đến phản ứng tình dục của con người. Các bác sĩ đã giành riêng một nhóm gọi là nhóm những rối loạn tình dục không thuộc các nhóm đã được đề cập ở trên (sexual dysfunction “NOS” (“not otherwise specified”) cho các rối loạn không đáp ứng những tiêu chí của bất kỳ rối loạn tình dục nào khác. Một ví dụ về những rối loạn tình dục không thuộc các nhóm đã được đề cập ở trên là việc hoàn toàn không có các cảm giác tình dục mặc dù có sự xuất hiện bình thường của các yếu tố sinh lý cực khoái.

    Có hai dạng rối loạn chức năng tình dục đáng được đề cập ở đây. Chứng cuồng dâm (hypersexuality) (còn được gọi là “nymphomania” ở phụ nữ và “satyriasis” ở nam giới) là rối loạn liên quan đến việc có ham muốn và hứng thú tình dục quá cao. Không có một phương pháp điều trị cụ thể nào đối với chứng cuồng dâm. Tại sao lại thế? Đầu tiên là vì hầu như không thể định nghĩa được thế nào là có dục tình “bình thường” hay thế nào thì được gọi là có dục tình “cao”. Một người có thể có ham muốn các hoạt động tình dục hai lần trong một ngày, trong khi người khác thì lại là hai lần trong một tháng. Thứ hai, mức độ ham muốn tình dục phản ánh nhiều điều khác nhau đối với những người khác nhau ở tại các thời điểm khác nhau. Ham muốn tình dục tăng có thể là do kết quả của tình trạng sức khỏe tăng lên của một người; hay đối với người khác đó cũng là một cách để giải quyết những căng thẳng.

    Tuy nhiên, đối với một số người thì ham muốn tình dục của họ có thể được hiểu là hành vi tình dục vô độ, nó gây cản trở đến một hoặc nhiều lĩnh vực của cuộc sống, chẳng hạn như gây cản trở đến việc học tập ở trường hay công việc. Hiện tượng này đã khiến một số tác giả và nhà trị liệu đưa ra khái niệm nghiện tình dục (sexual addiction), nó cũng có nhiều khía cạnh tương tự như nghiện rượu hay nghiện ma tuý. Nhưng nghiện tình dục có phải là một rối loạn tâm thần hay không thì hiện vẫn còn đang được tranh cãi. Ai có thể nói chắc chắn rằng cái gì được coi là “vô độ” hay “nghiện” tình dục? Và sự vô độ, thái quá tình dục (hay thái quá trong tôn giáo, luyện tập…) thì có phải là “nghiện”? Tuy nhiên, những tổ chức như Sex Addicts Anonymous và Sexaholics Anonymous (Nghiện Tình Dục Khuyết Danh) đã sử dụng chương trình “12 bước” có sửa đổi, được dựa trên chương trình 12 bước của Alcoholics Anonymous (Tổ Chức Nghiện Rượu Khuyết Danh) làm nguồn tài liệu để phổ biến giành cho những người muốn tìm kiếm sự giúp đỡ để vượt qua những suy nghĩ và các hành vi tình dục vô độ.

    Nguyên nhân gây ra các rối loạn chức năng tình dục

    Nguyên nhân gây ra các rối loạn chức năng tình dục có rất nhiều và chúng rất phức tạp. Vì có quá nhiều yếu tố phải xem xét — bản chất và mức độ của vấn đề, các hoàn cảnh và học vấn của cá nhân, ý nghĩa một triệu chứng cụ thể mà cá nhân hay hai người mắc phải – nên việc khái quát hoá các nguyên nhân là việc làm rất khó khăn. Nhưng vì một số kiểu mẫu có thể nhìn thấy rõ nên có một vài nguyên nhân gây rối loạn chức năng tình dục có thể được nhận diện và phân vào các nhóm được trình bày dưới đây.

    Về mặt sinh học mà nói, bất kỳ tình trạng sức khỏe, rối loạn, bệnh tật, hay thuốc men nào làm thay đổi chức năng hệ thống thần kinh cũng có khả năng gây rối loạn chức năng tình dục. Các chuyên gia tin rằng yếu tố sinh học chỉ phải chịu trách nhiệm đối với từ 10 đến 20% các ca rối loạn chức năng tình dục. Tuy nhiên, các điều tra gần đây hơn đã phản đối quan điểm này, các điều tra này cho rằng yếu tố sinh học có ảnh hưởng nhiều hơn thế đến các chức năng tình dục. Nhà tình dục học Helen Singer Kaplan và các bác sĩ khác đã phân nhóm các nguyên nhân sinh lý/y tế liên quan đến sự rối loạn chức năng tình dục như sau;

    • Các rối loạn và tình trạng sức khỏe. Nhóm này bao gồm các bệnh và các viêm nhiễm khác nhau gây trở ngại đến chức năng tình dục, thường bao gồm: sức khỏe ốm yếu, các viêm nhiễm trầm trọng và mãn tính, các bệnh thuộc tim, các vấn đề thuộc dạ dày-ruột, bệnh tiểu đường, bệnh đa xơ cứng, và bệnh Parkinson.

    • Những rối loạn thần kinh và thương tổn. Tổn thương hay khủng hoảng liên quan đến não bộ, hệ thống thần kinh, và vùng sinh dục thuộc nhóm nguyên nhân này.

    • Ma tuý và Dược phẩm. Nhóm này bao gồm các hoá chất phá hỏng chức năng tình dục bằng cách làm suy giảm hệ thống thần kinh và/hay làm thay đổi tâm tính, chúng bao gồm các thuốc chống tăng huyết áp, thuốc chống trầm cảm, thuốc an thần, ma tuý, nicôtin, và rượu cồn.

    Các nhà trị liệu tình dục rất chú ý đến những quá trình tâm lý hình thành nên hoạt động tình dục của một cá nhân. Đa số các rối loạn chức năng tình dục có nguyên nhân là do những mâu thuẫn nội tâm lý, sự lệch lạc trong kiến thức, điều kiện và nhận thức của một người.

    Đối với các nhân tố thuộc nội tâm lý (intrapsychic) (có nghĩa là “bên trong” chống lại “giữa cá nhân với nhau”) Freud và các nhà trị liệu có khuynh hướng phân tâm học đã đưa ra các mâu thuẫn tình dục khác nhau nảy sinh trong các giai đoạn phát triển cụ thể của tuổi thơ nhằm phản ứng lại với sự thiếu hụt hay hài lòng quá mức của các nhu cầu cơ bản đủ loại. Ví dụ, một cô gái bị cha mẹ trừng phạt vì tội dám sờ mó vào bộ phận sinh dục của mình có thể gắn (trở nên “sa lầy” và mâu thuẫn) từ giai đoạn phát triển tâm sinh dục ban đầu. Khi lớn lên cô ta có thể có nhiều mâu thuẫn bên trong về các quan hệ đến mức trở nên không có phản ứng với các quan hệ tình dục.

    Ảnh hưởng của kiến thức đối với hoạt động tình dục là rất rõ ràng. Hầu hết mọi người học cách suy nghĩ về kích thích và các hoạt động tình dục nhất định khi có sự hấp dẫn và hưng phấn. Điều kiện tình dục này có ảnh hưởng tích cực khi môi trường xã hội nuôi dưỡng các thái độ lành mạnh về tình dục, các quan hệ yêu đương, giao tiếp cởi mở và tự do lựa chọn. Thật không may vì không phải lúc nào cũng là như vậy. Nhiều người nhận được những huấn thị tiêu cực từ thời thơ ấu về hoạt động tình dục, và điều này dẫn đến các cảm giác và thái độ tiêu cực khi lớn lên. Những thông điệp từ thời thơ ấu này có thể là:

    • Tình dục là sai trái.

    • Khỏa thân là xấu xa.

    • Không được sờ mó vào bộ phận sinh dục.

    • Không bao giờ được sờ mó vào bộ phận sinh dục của người khác.

    • Những suy nghĩ về tình dục là bẩn thỉu.

    Các huấn thị kiểu như vậy có thể ảnh hưởng đến chức năng tình dục, nó can thiệp vào các quá trình suy nghĩ và củng cố thêm các hành vi tình dục không được mong muốn. Ví dụ, một người đàn ông trong suốt thời thơ ấu đã được dạy rằng các hoạt động tình dục là điều tội lỗi thì anh ta có thể sẽ cảm thấy sức ép và do vậy khi trở thành người lớn anh ta sẽ cố gắng leo lên đến đỉnh càng nhanh càng tốt nhằm làm giảm nhẹ tội lỗi của mình (ví dụ “Tôi càng đi nhanh, càng có ít thời gian tội lỗi”). Vì những suy nghĩ và khuôn mẫu tiêu cực đó tiếp diễn nên người nam giới này học cách xuất tinh sớm, do vậy anh ta đã củng cố một cách vô ý thức những hành vi rối loạn chức năng mỗi khi có quan hệ tình dục vội vàng.

    Nhiều người bị rối loạn tình dục cũng tham gia vào việc quan sát, hay tự theo dõi tình dục của bản thân. Thay vì cho bản thân được hưởng thụ những khoái cảm tình dục nhờ việc làm tình thì họ lại “bước ra ngoài bản thân” và tập trung vào việc theo dõi quá trình “thể hiện” tình dục của mình.

    Quan sát có thể làm tăng sự tập trung cực khoái (lo lắng sợ không đạt được cực khoái khi quan hệ tình dục) và/hay lo lắng về việc thể hiện tình dục (sợ không có khả năng làm cho bạn tình thỏa mãn, hay lo sợ người bạn tình cho mình là lố bịch). Hệ thống thần kinh còn bận dàn xếp với các cảm giác lo lắng, sợ hãi, tội lỗi và các phản ứng ám ảnh, nên bất kỳ cảm giác nào trong số các cảm giác đó cũng có thể ngăn cản ham muốn tình dục, hưng phấn tình dục và cực khoái.

    Các vấn đề về mối quan hệ cũng ảnh hưởng đến chức năng tình dục. Tức giận, oán hận, thù địch, và chống đối – cũng giống với các cảm giác lo lắng, sợ hãi, và tội lỗi – can thiệp đến hoạt động tình dục bằng cách cản trở các phản ứng của hệ thần kinh cần thiết đối với hưng phấn và phản ứng tình dục. Nhàm chán về tình dục, các kỳ vọng tình dục mâu thuẫn, những chỉ trích, tranh đấu quyền lực, những lo lắng về tài chính, và sợ hãi việc mang bầu có thể tạo ra các vấn đề về tình dục. Những đòi hỏi phi thực tế cũng có thể gieo hạt giống của nghi ngờ và tạo nên những rối loạn chức năng tình dục.

    Các ảnh hưởng xã hội cũng tạo nên sự phát triển của những rối loạn chức năng tình dục. Một số ảnh hưởng xã hội phổ biến là: được nuôi lớn trong sự đè nén về tình dục, các quan điểm tiêu cực của cha mẹ về sinh hoạt tình dục, và bộ phận sinh dục, những chuyện hoang đường về tình dục được duy trì bởi các phương tiện thông tin đại chúng, và khi bé bị lạm dụng, tham gia vào hoạt động tình dục loạn luân, và bị hiếp dâm. Tuy nhiên, cần phải giải quyết những quan điểm về văn hóa, xã hội và những ngăn cấm liên quan đến một số yếu tố xã hội, có tính quyết định gây ra những rối loạn tình dục. Cách mọi người cảm thấy và lựa chọn thể hiện hoạt động tình dục của họ tồn tại trong một bối cảnh văn hóa cụ thể. Cha mẹ, gia đình, thầy cô, và những người đứng đầu tôn giáo, tất cả họ giúp hình thành nên những quan điểm và cách thể hiện tình dục.

    Kích thích tình dục

    Suy Nghĩ Cá Nhân:

    Các vai trò tình dục truyền thống có ảnh hưởng đến chức năng tình dục không? Nó ảnh hưởng như thế nào? Hai vợ chồng có thể làm gì để hạn chế đến mức thấp nhất hoặc loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của các vai trò đó lên quan hệ của mình?

    CÁC LIỆU PHÁP TÌNH DỤC

    Chỉ vài thập niên trước đây thôi, con người cứ lặng lẽ chịu đựng những vấn đề về tình dục. Ngày nay xã hội đã hiểu biết hơn về bản chất của các rối loạn chức năng tình dục và phương pháp chữa trị, ngày càng có nhiều người đọc các cuốn sách hướng dẫn tự trợ giúp liên quan đến tình dục và tìm kiếm sự hỗ trợ của các chuyên gia trong lĩnh vực tình dục. Trên thực tế, những phát triển trong lĩnh vực tình dục học đã tạo nên nhiều phương pháp điều trị nhanh chóng và hiệu quả khác nhau cho những người muốn vượt qua các vấn đề liên quan đến tình dục.

    Nguyên tắc của tình dục học (bao gồm cả liệu pháp tình dục) còn khá non trẻ và do đó nó không có được nền tảng lý thuyết riêng biệt của mình. Bởi vậy các chuyên gia có kiến thức và quan điểm lý thuyết khác nhau đưa ra các liệu pháp tình dục khác nhau, mà những liệu pháp này không có cùng một hướng tiếp cận điều trị. Hơn nữa, cụm từ liệu pháp tình dục (sex therapy) là một cụm từ mơ hồ, mang các nghĩa khác nhau đối với các nhà trị liệu khác nhau. Với ý nghĩa lỏng lẻo, không rõ ràng đó, cụm từ này được dùng để chỉ bất kỳ phương pháp nào dùng để điều trị các vấn đề về tình dục. Với ý nghĩa hạn chế hơn, cụm từ này dùng để chỉ các chương trình cụ thể, được nghiên cứu công nhận nhằm loại bỏ các rối loạn chức năng tình dục cụ thể.

    Nhiều nhà trị liệu tình dục có chương trình cơ bản được biết đến dưới cái tên PLISSIT- tên viết tắt của sự cho phép (permission), thông tin hạn chế (limited information), những gợi ý cụ thể (specific suggestions), và liệu pháp tích cực (intensive therapy). Đầu tiên nhà trị liệu cho phép các khách hàng được hay không được phép có quan hệ tình dục khi họ cảm thấy đã sẵn sàng. Tiếp theo, nhà trị liệu cung cấp cho các khách hàng những thông tin hạn chế về bản chất thực sự liên quan đến chức năng tình dục, tiếp đến là đưa ra những gợi ý cụ thể về các hoạt động mà nhà trị liệu tin rằng những hoạt động đó sẽ có ích. Cuối cùng, nhà trị liệu cung cấp liệu pháp tích cực và giúp đỡ khách hàng bộc lộ và giải quyết những mâu thuẫn nội tâm lý, những nhận thức bị bóp méo, và các vấn đề quan hệ hỗn hợp. Không phải tất cả mọi người đều cần phải đi hết bốn bước PLISSIT này.

    Masters và Johnson

    Mô hình đầu tiên của liệu pháp tình dục được chấp nhận và sử dụng rộng rãi là mô hình của William Masters và Virginia Johnson – đây là mô hình có hướng tiếp cận toàn diện dựa trên các nguyên tắc của tâm lý học hành vi. Masters và Johnson đưa ra một chương trình hai tuần trị liệu tích cực cho các cặp vợ chồng. Họ tin rằng các vấn đề về tình dục chính là những vấn đề về mối quan hệ, và nó phải được điều trị trong bối cảnh đó. Chương trình bắt đầu bằng việc mỗi một người phải trải qua một cuộc kiểm tra tâm lý và sức khỏe toàn diện. Tiếp theo, cả hai người hàng ngày phải tham gia vào nhóm bác sĩ trị liệu nam-nữ. Masters và Johnson tin rằng mỗi người sẽ nhận dạng tốt nhất và cảm thấy được hiểu rõ bởi các bác sĩ trị liệu cùng giới với mình. Sau đó, hai bác sĩ cùng tham gia trị liệu sẽ giúp hai người xác định và cập nhật các mục tiêu điều trị, họ hướng dẫn hai vợ chồng trải qua các giai đoạn trị liệu khác nhau.

    Hướng tiếp cận “ngay trước mắt” của Masters và Johnson chủ yếu tập trung vào việc loại bỏ các triệu chứng tình dục — chứ không phải đi sâu vào việc tìm tòi và cố gắng sửa chữa những mâu thuẫn về tình cảm có gốc rễ sâu xa. Mặc dù những người chỉ trích cho rằng các vấn đề nằm dưới của các triệu chứng tình dục cần phải được loại bỏ để việc “chữa trị” có hiệu quả thì Masters và Johnson lại lập luận rằng làm giảm các triệu chứng bằng những phương pháp cụ thể là việc có thể làm được, đặc biệt là đối với những cặp vợ chồng không muốn hoặc không có đủ khả năng chi trả cho việc điều trị bằng liệu pháp tâm lý tích cực kéo dài trong vòng vài tháng hoặc vài năm.

    Các nguyên tắc quan trọng khác trong phương pháp điều trị của Masters và Johnson bao gồm:

    • Phương pháp điều trị được cá nhân hóa để đáp ứng các nhu cầu cụ thể của từng cặp vợ chồng.

    • Tình dục là chức năng tự nhiên, nó chủ yếu được điều khiển bởi các phản xạ tự nhiên của cơ thể.

    • Vì những sợ hãi liên quan đến việc thể hiện tình dục và quan sát thường đóng vai trò trung tâm trong các trường hợp bị rối loạn chức năng tình dục nên phương pháp điều trị phải được tiếp cận ở những mức độ khác nhau, bao gồm cả việc điều chỉnh lại các kỳ vọng và tăng cường giao tiếp.

    • Xác định xem ai là người có lỗi trong vấn đề tình dục là việc không nên làm.

    Kaplan

    Được xây dựng trên mô hình ba giai đoạn về phản ứng tình dục của con người do chính bà tạo dựng nên, Helen Singer Kaplan đã tạo ra Liệu pháp Tình dục Mới (New Sex Therapy) để điều trị các rối loạn xuất hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong ba giai đoạn của phản ứng tình dục — ham muốn, hưng phấn và cực khoái. Giống như Masters và Johnson, Kaplan tin rằng một số vấn đề tình dục là do các nguyên nhân “tức thời” và có thể tiếp cận (điều này khiến cho việc chữa trị trở nên dễ dàng hơn), còn lại là những rối loạn do các nguyên nhân “không thể nhận thức” và các nguyên nhân khó tiếp cận hơn (điều này khiến cho việc chữa trị trở nên khó khăn hơn). Do vậy Kaplan xây dựng một mô hình trị liệu kết hợp những kỹ thuật của Masters và Johnson với các nguyên tắc khác nhau của liệu pháp Freud, chẳng hạn như thừa nhận vai trò của các quá trình vô thức trong chức năng tình dục.

    Phương pháp của Kaplan khác với phương pháp của Masters và Johnson ở một số mặt khác nữa. Đó là: bà không hạn chế thời gian chỉ là vài tuần giành cho khách hàng. Mặc dù, ở nhiều trường hợp, bà nhấn mạnh vào liệu pháp hành vi ngắn hạn, nhưng bà cũng gợi ý sử dụng liệu pháp tích cực dài hạn giành cho những khách hàng có biểu hiện mâu thuẫn tình dục có gốc rễ sâu xa. Hơn nữa, Kaplan điều trị hiện tượng rối loạn xuất tinh sớm bằng phương pháp dừng lại-bắt đầu chứ không phải bằng phương pháp siết chặt (được miêu tả dưới đây).

    Một số phương pháp cơ bản của liệu pháp tình dục

    Các nhà trị liệu tình dục có một số phương pháp để điều trị những rối loạn tình dục. Các phương pháp đó là: phương pháp tập trung cảm giác (sensate focus), huấn luyện thủ dâm (masturbation training), phương pháp dừng lại-bắt đầu (stop-start technique), phương pháp siết chặt (squeeze technique), liệu pháp nhận thức (cognitive therapy), phẫu thuật (surgery), sử dụng thuốc (medications), lắp ghép bộ phận giả (prosthesis), và trong một số rất ít các trường hợp sử dụng người thay thế tình dục (sexual surrogates).

    Phương pháp tập trung cảm giác. Vì nhiều rối loạn tình dục có nguyên nhân là do sự quan sát, lo lắng về việc thể hiện, những đòi hỏi phải thể hiện được thế này, cảm giác tội lỗi, và giao tiếp không hiệu quả, nên Masters và Johnson đã đề nghị các bệnh nhân của họ sử dụng thành thạo những bài tập cho và nhận mà không có sự đòi hỏi ở giai đoạn đầu của liệu pháp. Được gọi tên là phương pháp tập trung cảm giác (sensate focus), những bài tập này bắt đầu bằng các hoạt động nhận thức hướng đến sự động chạm (ví dụ như xoa bóp cơ thể) và dần dần hướng đến các hoạt động tình dục trực tiếp hơn (vuốt ve vùng sinh dục).

    Trong khi thực hiện các bài tập tập trung cảm giác, hai người lần lượt vuốt ve và được vuốt ve, họ cũng cùng chia sẻ những suy nghĩ và cảm xúc với nhau. Mục tiêu đối với cả hai người là học cách cho và nhận không nhằm mục đích gì, không đòi hỏi phải có được khoái cảm.

    Huấn luyện thủ dâm. Những người gặp rắc rối đối với việc đạt được cực khoái khi quan hệ tình dục có thể sẽ không gặp phải vấn đề tương tự như vậy khi thủ dâm. Do đó huấn luyện thủ dâm (masturbation training), có hay không có thiết bị rung, làm một mình hay với bạn tình, có thể là một liệu pháp vô giá để điều trị những vấn đề liên quan đến cực khoái. Trong trường hợp mắc chứng rối loạn cực khoái suốt đời, bác sĩ trị liệu tình dục có thể đề nghị bệnh nhân của mình học cách đạt được cực khoái khi thủ dâm trước khi đạt được cực khoái khi quan hệ tình dục. Trong trường hợp bị rối loạn cực khoái mắc phải, nhà trị liệu có thể yêu cầu bệnh nhân thực hành một loạt các bài tập tập trung cảm giác và tăng cường hưng phấn để giúp người bệnh “thả lỏng”. Điều trị rối loạn cực khoái mắc phải dễ hơn điều trị rối loạn cực khoái suốt đời.

    Sau khi đã đạt được cực khoái khi thủ dâm, người bệnh phải học cách khái quát hóa các phản ứng tình dục của mình từ kích thích bằng tay sang khích thích bằng giao hợp.Ví dụ, một số phụ nữ đạt được cực khoái sau khi biết cách Kegel, nghĩa là sau khi biết cách co và giãn các cơ sàn vùng chậu của họ (pubococcygeal ~ “PC”). Đầu tiên, người phụ nữ cần phải nhận biết được các cơ này bằng cách khi đang đi tiểu thì dừng lại rồi lại tiếp tục. Sau đó cô tiếp tục luyện tập co và giãn các cơ vùng chậu khi không đi tiểu, chẳng hạn như khi đứng, ngồi, hay thậm chí cả khi nói chuyện qua điện thoại. Arnold Kegel xây dựng các bài tập kiểm soát các cơ sàn vùng chậu vào những năm cuối thập niên 40, nó được dùng để điều trị chứng đái dầm. Các nhà nghiên cứu và trị liệu Phương Tây về sau đã khám phá ra rằng, bài tập kiểm soát các cơ sàn vùng chậu cũng có tác dụng làm tăng cực khoái ở cả nam giới lẫn phụ nữ.

    Phương pháp dừng lại-bắt đầu. Được James Semans xây dựng năm 1956, phương pháp dừng lại-bắt đầu được sử dụng để điều trị chứng xuất tinh sớm. Người phụ nữ kích thích dương vật nam giới gần đến điểm xuất tinh nhưng sau đó tạm thời dừng lại cho đến khi sự thôi thúc lên đến đỉnh của người nam giới qua đi. Quá trình này được lặp lại nhiều lần, mỗi lần sau lại kéo dài thời gian cần thiết giữa những lần tạm dừng để kiềm chế sự xuất tinh. Cuối cùng người nam giới xây dựng được khả năng kiểm soát phản ứng xuất tinh tự nhiên của mình dưới sự có mặt của những kích thích kéo dài, có cường độ mạnh.

    Phương pháp siết chặt. Phương pháp siết chặt củaMasters và Johnson, giống với phương pháp dừng lại-bắt đầu, cũng được dùng để điều trị chứng xuất tinh sớm. Phương pháp này liên quan đến việc bạn tình của người nam giới nhẹ nhàng siết dương vật cương cứng của anh ta ở phần đầu hay phần gốc. Người bạn tình thực hiện việt “siết chặt” ngay khi người nam giới có dấu hiệu thôi thúc muốn xuất tinh và làm như vậy cho đến khi sự thôi thúc xuất tinh này trôi qua (thường khoảng 4 giây). Hoạt động tình dục lại bắt đầu lại, và quá trình này được lặp lại từ ba đến bốn lần mỗi khi hai người gặp gỡ cho đến khi người nam giới biết cách kiểm soát sự xuất tinh

    Liệu pháp nhận thức. Phương pháp điều trị có hiệu quả các rối loạn tình dục phải bao gồm cả những kỹ thuật nhằm vào những kiểu mẫu suy nghĩ có vấn đề đã được nhắc đến ở các phần trên. Các nhà trị liệu tình dục cần phải chỉ cho khách hàng của mình thấy những suy nghĩ, cảm giác, hành vi có vai trò như thế nào trong việc tạo nên các vấn đề tình dục, cũng như cách xóa bỏ những kiểu mẫu sai lầm đó. Phương pháp nhận thức là phương pháp thích hợp đối với các cá nhân, các cặp vợ chồng và các nhóm. Cần và cũng rất tuyệt vời khi sử dụng liệu pháp này phụ với liệu pháp hành vi, chứ không phải để thay thế nó.

    Phẫu thuật, Sử dụng thuốc, và Người thay thế. Các rối loạn tình dục có nguyên nhân do các yếu tố hữu cơ gây ra thường đòi hỏi có sự can thiệp bằng y tế. Các bác sĩ có thể phẫu thuật để sửa chữa những dị dạng về cấu trúc của các cơ quan sinh sản, hoặc họ có thể sử dụng một hay nhiều loại thuốc để cải thiện chức năng tình dục.

    Một số bác sĩ chọn cách xử lý một số rối loạn chức năng tình dục bằng cách cơ học, với việc lắp ghép bộ phận giả (prosthesis) (một dụng cụ nhân tạo dùng để thay thế phần cơ thể bị thiếu). Ví dụ, một phương pháp có thể dùng để điều trị chứng bất lực nghịch, mãn tính là phẫu thuật cấy dương vật giả (penile prosthesis) để mang lại sự cương cứng. Bác sĩ phẫu thuật đưa một hoặc hai ống hình trụ mảnh, rỗng vào trong thân của dương vật, và đưa một bơm chứa dịch vào trong túi bìu dái. Khi người nam giới muốn dương vật của mình cương cứng, anh ta chỉ cần ép cái bơm, nó sẽ đẩy dịch lỏng vào trong các ống hình trụ. Khi anh ta muốn dương vật của mình mềm lại, anh ta chỉ cần tháo một cái van nhỏ, van này sẽ khiến cho chất dịch lỏng quay trở lại bơm ở bìu dái. Nhiều nam giới sử dụng dương vật cấy giả đạt được sự thoả mãn khi có các hoạt động tình dục.

    Người thay thế tình dục. Đasố các nhà trị liệu tình dục yêu cầu cả hai vợ chồng tham gia vào việc trị liệu, chủ yếu bởi vì hầu hết các phương pháp trị liệu tình dục đều yêu cầu cả hai người tham gia mới có hiệu quả. Vậy thì điều gì sẽ xảy ra nếu như khách hàng là một người chưa có gia đình, hay nếu như người vợ/chồng từ chối không muốn tham gia trị liệu? Ở hầu hết những tình huống này, các nhà trị liệu phải cố gắng hết sức để làm việc với khách hàng bất kể hoàn cảnh của anh ta hay cô ta thế nào. Tuy nhiên, một vài nhà trị liệu chỉ định cho khách hàng một người thay thế tình dục (sexual surrogate), đây là người thực hiện các chức năng trong liệu pháp tình dục thay thế cho sự vắng mặt của người vợ/chồng hay người bạn tình. Lúc này các thành phần của liệu pháp tình dục vẫn như vậy, trừ việc bệnh nhân tham gia các bài tư vấn cùng với bác sĩ trị liệu và người thay thế, và người đó chỉ thực hiện các bài tập với người thay thế thôi. Người thay thế tham gia vào tất cả các loại hoạt động tình dục – từ thực hành bài tập tập trung cảm giác đến quan hệ tình dục – tuỳ thuộc vào các nhu cầu tình dục cụ thể của khách hàng và sự đề nghị của nhà trị liệu.

    Việc sử dụng người thay thế tình dục hiện vẫn gây tranh cãi rất lớn, đặc biệt do có sự lây truyền của HIV/AIDS. Nhiều chuyên gia y tế và các thành viên của xã hội chỉ trích hành động này, coi nó không khác gì hành động bán dâm được ca ngợi và hợp lý hóa. Tuy nhiên, những người ủng hộ lại cho rằng, trong một số trường hợp về y tế việc sử dụng người thay thế là điều không thể tránh khỏi và nó thậm chí còn khiến cho tỷ lệ thành công cao hơn việc sử dụng các phương pháp truyền thống. Đa số các nhà trị liệu tình dục không sử dụng dịch vụ người thay thế.

    Phát hiện của Đông y về sex

    Suy Nghĩ Cá Nhân : Theo ý kiến của bạn, chính quyền các bang có nên quy định hay cấm các hoạt động sử dụng người thay thế tình dục không?

    TÌM KIẾM NHÀ TRỊ LIỆU TÌNH DỤC PHÙ HỢP

    Nhìn chung, các rối loạn chức năng tình dục được chữa trị hiệu quả khi liệu pháp nhằm đúng vào các triệu chứng hay các nguyên nhân cụ thể gây ra vấn đề. Việc tìm đúng phương pháp trị liệu đối với một vấn đề cụ thể không phải lúc nào cũng đơn giản nhưng nó là cách tiếp cận có hiệu quả nhất. Đã qua rồi những ngày khi bác sĩ yêu cầu tất cả các bệnh nhân có vấn đề về tình dục phải trải qua phương pháp phân tâm học của Freud trong vòng nhiều năm để khám phá và vượt qua những xung đột về tình dục có gốc rễ sâu xa.

    Bước đầu tiên để tìm kiếm đúng liệu pháp cho một vấn đề tình dục là tìm kiếm nhà trị liệu thích hợp. Có thể tìm thấy những nhà trị liệu này ở các phòng khám liên kết với các trường đại học, cao đẳng y khoa, hay bệnh viện. Hầu hết các bang không quy định hay không cấp giấy phép chuyên gia trị liệu tình dục. Do đó, có thể hiểu được nếu như một người không được đào tạo chuyên khoa lại treo bảng hiệu lên trên cửa văn phòng và mở một phòng khám và trị liệu tình dục. Mặc dù các nhà trị liệu tình dục không phải bản thân họ được đào tạo chuyên khoa, nhưng nhiều bang vẫn cấp giấy phép và chứng chỉ cho các chuyên gia tâm thần học, các nhà tâm lý học, các nhà tư vấn, và nhân viên xã hội, cho phép họ điều trị những rối loạn tình dục như là phạm vi mở rộng hơn của các hoạt động chuyên nghiệp.

    Suy Nghĩ Cá Nhân : Bạn tìm kiếm những phẩm chất cá nhân và tính chuyên nghiệp nào ở các nhà trị liệu tình dục? Hãy nêu ra một số lý do khiến cho các cá nhân và các cặp vợ chồng có thể do dự khi tìm kiếm dịch vụ trị liệu tình dục chuyên nghiệp? Cần phải làm gì để nâng cao nhận thức của mọi người về tầm quan trọng và tính hiệu quả của liệu pháp tình dục?

    LIỆU PHÁP TÌNH DỤC CÓ HIỆU QUẢ NHƯ THẾ NÀO?

    Với sự xuất bản của tác phẩm có nhan đề Sự Không Thỏa Đáng Trong Hoạt Động Tình Dục ở Con Người (Human Sexual Inadequacy) (1970)24, Masters và Johnson đã khẳng định rằng liệu pháp tình dục không chỉ có hiệu quả mà còn rất có hiệu quả — theo báo cáo thì tỷ lệ thất bại chung sau khi điều trị chỉ có 20% ở 790 bệnh nhân được điều trị thử nghiệm đầu tiên. Tuy nhiên, một thập niên sau khi tác phẩm tiên phong của Masters và Johnson được xuất bản, thì Bernie Zilbergeld và Michael Evans đã xuất bản một bài báo có nhan đề mỉa mai là “Sự Không Thỏa Đáng Của Masters Và Johnson” (“The Inadequacy of Masters and Johnson”) (1980)25. Bài báo này nghi ngờ tỷ lệ thất bại quá thấp đáng ngạc nhiên của Masters và Johnson, Zilbergeld và Evans cho rằng không thể đánh giá được các phương pháp của họ và hay không thể quyết định được tỷ lệ thành công thực sự chỉ dựa trên những báo cáo sai lầm về kết quả và trình tự thực hiện của họ. Ví dụ như Masters và Johnson đã không giải thích được các trình tự thử nghiệm hay báo cáo xem có bao nhiêu đối tượng tiềm năng bị loại khỏi nghiên cứu của họ, mà điều này theo như Zilbergeld và Evans là những thiếu sót cơ bản trong nghiên cứu đối với bất kể tiêu chí nghiên cứu khoa học nào.

    Trong một cuốn sách kinh điển khác có tên là Kê Đơn Cho Tình Dục (Sex by Prescription) (1990)26, chuyên gia tâm thần học Thomas Szasz- đã lên tiếng chỉ trích mô hình y học/tâm thần học và con số gây tranh cãi – ông cho rằng tác phẩm ban đầu của Masters và Johnson có vấn đề liên quan đến những đánh giá về mặt chính trị, giá trị, và đạo đức, nó không giống với một nghiên cứu y học/khoa học. Szasz nhận xét rằng về mặt trị liệu tình dục chuyên nghiệp nói chung thì:

    “Ngày nay có thể khẳng định một cách giáo điều – bởi những người làm trong ngành y và những người đưa ra quan điểm chính thức của xã hội – rằng việc hưởng thụ tình dục là lành mạnh và bình thường đối với mọi người, và việc thiếu sự thoả mãn trong tình dục là triệu chứng của các rối loạn tình dục, và những rối loạn đó có thể được làm giảm bớt và loại bỏ bằng sự can thiệp y học đúng mức (phép chữa bệnh tình dục), và bất kỳ khi nào có thể thì những rối loạn đó nên được chữa trị. Mặc dù quan điểm này làm ra vẻ là khoa học, nhưng trên thực tế nó là quan điểm đạo đức, hay tôn giáo: nó là sự thể hiện của hệ tư tưởng y học mà chúng ta thay thế cho những tín điều tôn giáo truyền thống.” (trang 164-165)

    Bất kể những chỉ trích, thì nghiên cứu về mặt toàn thể chỉ ra rằng liệu pháp tình dục có thể giúp hai người vượt qua được những vấn đề tình dục cụ thể. Các nghiên cứu được xuất bản bởi Masters và Johnson vẫn tiếp tục khẳng định những ích lợi tích cực của liệu pháp tình dục.

    Suy Nghĩ Cá Nhân: Đâu là những điều mà bạn thấy hữu ích trong việc giúp bạn tránh khỏi những rối loạn chức năng tình dục?

    NHỮNG ĐIỂM CHÍNH

    1.Hầu hết mọi người đều trải nghiệm ít nhất là một số khó khăn liên quan đến chức năng tình dục của họ vào lúc này hay lúc khác. Tuy nhiên, nhiều người lại gặp những trục trặc mãn tính trong chu kỳ phản ứng tình dục của họ – rối loạn chức năng tình dục.

    2. Các rối loạn ham muốn tình dục là những rối loạn ở giai đoạn thèm muốn của hệ thống phản ứng tình dục. Các rối loạn ham muốn tình dục bao gồm rối loạn giảm ham muốn tình dục (hypoactive sexual desire disorder) và rối loạn ác cảm tình dục (sexual aversion disorder).

    3. Các rối loạn hưng phấn tình dục nói đến những vấn đề thuộc giai đoạn hưng phấn của phản ứng tình dục. Các rối loạn hưng phấn tình dục bao gồm: rối loạn hưng phấn tình dục ở phụ nữ (female sexual arousal disorder) và rối loạn dương cương ở nam giới (male erectile disorder).

    4. Đặc trưng cơ vản của các rối loạn cục khoái là sự trục trặc trong giai đoạn cực khoái của phản ứng tình dục. Các rối loạn cực khoái bao gồm rối loạn cực khoái ở phụ nữ (female orgasmic disorder), rối loạn cực khoái ở nam giới (male orgasmic disorder), và xuất tinh sớm (premature ejaculation).

    5. Các rối loạn gây đau khi quan hệ tình dụcliên quan đến đau ở vùng sinh dục khi có các hoạt động tình dục. Các rối loạn gây đau khi quan hệ bao gồm rối loạn dyspareunia và chứng co đau âm đạo (vaginismus).

    6. Các nguyên nhân về mặt sinh học của rối loạn chức năng tình dục bao gồm: Các rối loạn và tình trạng sức khỏe, những rối loạn thần kinh và thương tổn, và ma tuý và dược phẩm.

    7. Các nguyên nhân về mặt tâm lý của rối loạn chức năng tình dục bao gồm: mâu thuẫn nội tâm lý, sự lệch lạc trong kiến thức, điều kiện và nhận thức. Các nguyên nhân về mặt xã hội bao gồm được nuôi lớn trong sự đè nén về tình dục, các quan điểm tiêu cực của cha mẹ về sinh hoạt tình dục, và bộ phận sinh dục, những chuyện hoang đường về tình dục được duy trì bởi các phương tiện thông tin đại chúng, và khi bé bị lạm dụng, tham gia vào hoạt động tình dục loạn luân, và bị hiếp dâm. Các quan điểm văn hóa và những rào cản xã hội cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các giá trị và tập tục tình dục.

    8. Các chuyên gia có kiến thức và quan điểm lý thuyết khác nhau đưa ra các liệu pháp tình dục khác nhau. Hầu hết các nhà trị liệu tình dục đều có chương trình cơ bản được biết đến dưới cái tên PLISSIT- tên viết tắt của sự cho phép (permission), thông tin hạn chế (limited information), những gợi ý cụ thể (specific suggestions), và liệu pháp tích cực (intensive therapy).

    9. Hai mô hình liệu pháp tình dục được chấp nhận và sử dụng rộng rãi là mô hình của Masters và Johnson (1970), và Kaplan (1974). Một số phương pháp cơ bản, phổ biến dùng để điều trị những rối loạn tình dục là: phương pháp tập trung cảm giác (sensate focus), huấn luyện thủ dâm (masturbation training), phương pháp dừng lại-bắt đầu (stop-start technique), phương pháp siết chặt (squeeze technique), liệu pháp nhận thức (cognitive therapy), phẫu thuật (surgery), sử dụng thuốc (medications), lắp ghép bộ phận giả (prosthesis), và trong một số rất ít các trường hợp sử dụng người thay thế tình dục (sexual surrogates).

    Mục lục

    Lời nói đầu ……………………………………………………………………………….

    Chương 1. Hoạt động tình dục Và Quan điểm Tâm sinh lý xã hội ………..

    Chương 2. Nghiên cứu về Tình dục là gì?………………………………………..

    Chương 3. Các khuôn mẫu, Vai trò và Nhận dạng về Giới …………………

    Chương 4. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Phụ nữ. ……………………….

    Chương 5. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Nam giới ……………………..

    Chương 6. Hưng phấn tình dục và Phản ứng lại………………………………..

    Chương 7. Thiên hướng Tình dục…………………………………………………..

    Chương 8. Các mối quan hệ Yêu đương…………………………………………

    Chương 9. Hành vi Tình dục………. ……………………………………………….

    Chương 10. Hoạt động tình dục, Sức khỏe và Sự tàn tật……………………

    Chương 11. Hoạt động tình dục Và Vòng đời…………………………………..

    Chương 12. Thụ thai, Mang thai và Sinh nở………………………………………

    Chương 13. Tránh thai và Nạo phá thai……………………………………………

    Chương 14. Các bệnh lây truyền qua đường Tình dục…………………………

    Chương 15. Rối loạn Tình dục và Cách chữa trị…………………………………

    Chương 16. Tình dục đồi trụy.. ………………………………………………………

    Chương 17. Chợ tình ……………………………………………………………………

    Chương 18. Hoạt động tình dục và Luật pháp……………………………………

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    giai-doc-gan-an-binh

    Khách hàng nhận xét

    Tôi rất yên tâm khi sử dụng sản phẩm của Dược An Bình. Từ khi sử dụng PHARZUBEST – Bổ sung vitamin và khoáng chất, sức khoẻ của tôi được cải thiện nhiều.
    Quang Trần
    Khi dùng Grathozi – Trị nấm âm đạo, bệnh của tôi đã thuyên giảm và khỏi hẳn sau 7 ngày.
    Thu Hương
    Tôi đã mua Canxi King cho cháu nhà tôi uống. Sản phẩm rất tốt và dễ uống.
    Nguyễn Minh, Khu D8, Thành Công, Đống Đa, Hà Nội