HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN: 1900545562 (Từ: 8:00 - 17:00)

    Kiến thức giới tính

    Chương 18 : Tình Dục Và Luật Pháp

    Nếu một người đàn ông phạm tội thông dâm với vợ người khác, một người phạm tội thông dâm với vợ bạn anh ta, rõ ràng người đàn ông thông dâm và người phụ nữ ngoại tình phải bị kết tội chết. Nếu một người ngủ với vợ của cha anh ta, anh ta thấy cha mình loã thể, cả hai người phải bị kết tội chết …

    Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người

    Tác giả : Bác Sĩ George D. Zgourides, Thạc Sĩ Christie S. Zgourides. 

    Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang 

    CHƯƠNG 18 : TÌNH DỤC VÀ LUẬT PHÁP

    Nếu một người ngủ với chị dâu của anh ta, cả hai phải bị kết tội chết; họ đã phạm tội loạn luân … Nếu một người đàn ông ngủ với người cùng giới giống như ngủ cùng với phụ nữ, cả hai người đã phạm một tội đáng ghê tởm, họ chắc chắn phải bị kết tội chết … Nếu một người đàn ông cưới một phụ nữ và mẹ cô ta, điều này trái với luân thường; cả anh ta và hai người phụ nữ phải bị thiêu sống; do đó có thể sẽ không có sự đồi bại xấu xa nào. Nếu một người đàn ông ngủ với một con vật, anh ta phải bị kết tội chết, chúng ta cũng phải giết chết con vật đó. Nếu có một phụ nữ tiếp cận với bất cứ con vật nào để giao phối với nó, bạn nên giết người phụ nữ và con vật đó, chúng chắc chắn nên bị kết tội chết …Nếu một người con trai đòi hỏi em gái anh ta, con gái của cha anh ta hay con gái của mẹ anh ta, để anh ta được nhìn thấy cô ấy khoả thân và cô ấy nhìn anh ta khoả thân, thì đây là một điều ô nhục và những người đó phải bị chọc mù mắt … Nếu một người đàn ông ngủ với một người phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt và thấy cô ấy khoả thân, anh ta loã thể nằm trên dòng máu kinh của cô ta, cô ta không giấu diếm kinh nguyệt của mình; thì cả hai người phải bị cách ly khỏi cộng đồng. (Leviticus 20:10-18)

    Đã bao nhiêu lần các nhà giáo dục, người biên tập báo chí, và các chính trị gia tuyên bố rằng , “Bạn không thể xây dựng luật đạo đức!”? Những từ này đã trở thành khẩu hiệu cho bất kỳ nhóm người và cá nhân nào đang tìm kiếm sự tự do hơn trong việc thể hiện tình dục. Nếu việc không có khả năng xây dựng luật đạo đức là hiển nhiên thì tại sao xã hội cần quá nhiều luật chi phối các hành vi đạo đức?

    Ở đất nước này, những nhà lập pháp tiếp tục thông qua (và cố gắng thông qua) đủ loại luật tình dục, hay những luật được thiết lập để điều chỉnh và bảo vệ các cá nhân khỏi những chú ý, bình phẩm, cử chỉ, và hành vi tình dục không mong muốn. Số lượng luật tình dục đã ban hành và có hiệu lực ngày nay giảm xuống đáng kể so với các thế hệ trước trong quá khứ, song nhiều bang và thành phố tự trị có luật tình dục mà nếu có hiệu lực thì những luật này sẽ kết tội một số lượng lớn công dân tuân thủ luật pháp và sống lành mạnh, mà thậm chí những công dân này không biết rằng mình đã phạm tội. Ví dụ, một số bang ở Mỹ có luật thú dâm ngăn cấm “những tội ác chống lại tự nhiên,” chúng được hiểu một cách lỏng lẻo (nhưng rõ ràng, trong một vài trường hợp) bao gồm, và giữa các hành vi quan hệ tình dục bằng miệng và bằng hậu môn. Về mặt ngữ nghĩa, ở những bang và cộng đồng này, cảnh sát có thể bắt mấy chục cặp vợ chồng cùng đồng ý tham gia giao phối bằng miệng với nhau. Việc thi hành có chọn lựaluật thú dâm ngày nay được coi như một cơ chế để kiểm soát các cá nhân bị xã hội cho là đồi bại và đáng chê trách.

    Sự nghi ngờ về mục đích và tính công bằng của luật tình dục bản thân nó gần đây đã là một hiện tượng. Trước đây không lâu, luật tình dục được chấp nhận một cách giản đơn như một thực tế. Vì thế, thay vì hỏi tại sao một vài luật tình dục cụ thể nào đó (bao gồm những luật được xem là cổ xưa) vẫn còn tồn tại trong các cuốn sách, thì chương này xin xem xét nguồn gốc và mục đích của luật tình dục nói chung.

    Tìm điểm cực khoái của nam giới

    NGUỒN GỐC CỦA LUẬT TÌNH DỤC

    Mặc dù khó có thể tìm thấy nguồn gốc sự bắt đầu của luật tình dục, nhưng lịch sử những luật này ở trong xã hội phương Tây khởi đầu từ Kinh Thánh và kinh Do Thái. Luật chi phối hành vi như đã tóm tắt ở trên đã trở thành nền tảng cho những tiêu chuẩn đạo đức của các quốc gia, các nền văn hoá chịu ảnh hưởng của các giá trị Judeo-Christian. Ví dụ, Pentateuch (Năm cuốn đầu của kinh Cựu Ước) bao gồm các quy tắc tình dục như sau:

    • Vì nguyên nhân này, một người con trai phải rời bỏ cha và mẹ anh ta, và phải gắn bó với vợ mình; và họ phải gắn bó xác thịt với nhau. (Genesis – Cuốn đầu Kinh Cựu ước 2:24)

    • Bạn không được ngủ với đàn ông giống như một người ngủ với phụ nữ, đó là một việc làm kinh tởm. (Leviticus 18:22)

    • Bạn không được phạm tội thông dâm. (Deuteronomy 5:18)

    Trong Kinh Tân Ước, Thánh Paul của Tarsus viết:

    • Bạn có biết rằng thể xác của bạn là thành viên của Chúa? Sao bạn lại từ bỏ việc làm thành viên của Chúa và biến thành gái điếm? Không thể như thế được! (1 Corinthians 6:15)

    • Từ bỏ sự đồi bại. (1 Corinthians 6:18)

    • Vì đây là ý muốn của Chúa, sự thiêng liêng của bạn; có nghĩa là bạn phải tránh xa sự đồi bại tình dục. (1 Thessalonians 4:3)

    Mặc dù cách hiểu cơ bản về những điều này và những tiêu chuẩn về tình dục khác của Kinh Thánh tạo nên rất nhiều sự tranh luận trong giới học thuật, nhưng rõ ràng nó đóng một vai trò chủ chốt trong việc hình thành nên những gì mà văn hoá Judeo-Christian phương Tây coi là phương thức tiêu chuẩn và có thể chấp nhận về sự thể hiện tình dục. Tuy nhiên một số nhóm có thể tranh luận rằng tình dục và tất cả những vấn đề được coi là riêng tư và thân mật – chỉ nên nằm trong phạm vi có sự nhất trí và ưng thuận của hai người có liên quan, nhưng quan niệm Judeo-Christian truyền thống lại cho rằng trên thực tế những vấn đề về đạo đức có ảnh hưởng tới xã hội và văn hoá. Tóm lại, những đạo luật tình dục ở phương Tây được xây dựng dựa trên di sản Judeo-Christian với sự nhấn mạnh vào các giá trị và quy tắc xã hội.

    MỤC ĐÍCH CỦA LUẬT TÌNH DỤC

    Thậm chí nếu xã hội tranh luận rằng “những vấn đề trong phòng ngủ” thuộc về phòng ngủ và nên nằm ngoài phạm vi luật pháp, thì hầu hết mọi người vẫn tin rằng chí ít thì cũng cần có một số luật tình dục, thậm chí việc có nó còn là cần thiết. Ví dụ, nhìn chung mọi người Mỹ đều đồng ý rằng luật chống lại các hoạt động tình dục cưỡng ép phải được ban hành và ủng hộ. Một số ít người tranh luận chống lại các luật ngăn cấm (1) sự tấn tình dục (cưỡng hiếp); (2) lạm dụng tình dục trẻ em (gạ gẫm trẻ em), con cái của chính ai đó hay họ hàng (loạn luân), và những cá nhân quá nhỏ hay chưa đủ khả năng chịu trách nhiệm về tình dục của bản thân (cưỡng bức người bị thiểu năng phát triển); và (3) khai thác tình dục nơi làm việc hay trong lớp học (quấy rối tình dục). Thậm chí mặc dù khó tiến tới một sự đồng thuận về quan điểm này, nhưng nhiều người ủng hộ luật tình dục cũng tin rằng những người làm luật nên đưa những giá trị và những mối quan tâm của cộng đồng địa phương vào để cân nhắc, ngăn cấm hành vi tình dục, mà các thành viên trong một cộng đồng cụ thể nào đó cho rằng những hành vi đó là đáng ghê tởm, hay họ lo ngại rằng những hành vi đó bằng cách này hay cách khác có thể dẫn đến sự tấn công hay xâm phạm tình dục.

    Về phương diện lịch sử, luật tình dục đã phục vụ mục tiêu xã hội và chính trị, đó là duy trì nguyên trạng sự “đứng đầu” của nam giới và sự toàn vẹn trong đơn vị gia đình – chồng, vợ và con cái. Nhưng khi xã hội trở nên linh hoạt hơn trong việc mô tả về cái tạo nên “một gia đình,” thì những người chỉ trích trở nên thẳng thắn hơn trong việc xem xét kỹ lưỡng các định nghĩa chính xác của chính quyền. Nhiều người Mỹ tranh luận rằng việc làm luật về hành vi tình dục cần phải thay đổi để nhằm thẳng vào những nhu cầu khác nhau trong sự kết hợp đủ loại giữa các cá nhân, những người độc thân, những người đã ly dị, và cha mẹ người đại diện cho môi trường gia đình bảo hộ và trợ giúp.

    Nghiên cứu mục đích của luật tình dục đòi hỏi phải quay trở lại những vấn đề quy định hoạt động tình dục. Rút cục, luật tình dục ngăn cấm hành vi tình dục bắt ép người khác, rất khác với những luật ngăn cấm hành vi tình dục ngoại tình và không vì sinh sản giữa những người trưởng thành có sự chấp thuận của cả hai người. Tuy nhiên, luật tình dục ngăn cấm hành vi tình dục ép buộc giúp bảo vệ chống lại sự xâm hại có thể chứng minh được, còn luật ngăn cấm hành vi ngoại tình xoay quanh giả thiết rằng những hành vi này là trái với đạo đức và sự xúc phạm đạo đức này đang gây tổn hại tới kết cấu xã hội. Luật tình dục dựa trên sự đánh giá đạo đức liên quan tới nỗ lực áp đặt khuynh hướng tin tưởng của số đông lên tất cả các thành viên trong xã hội. Tất nhiên, điều này ngày nay dễ dàng hơn khi đa số người dân Mỹ đã quen thuộc với những quan điểm Judeo- Christian.Với rất nhiều cộng đồng khác nhau ở nước Mỹ ngày nay – đa dạng về mặt tôn giáo, sắc tộc, thu nhập, và giới tính -việc nhận dạng, không phải áp đặt, tính đạo đức chi phối là một khái niệm bị đa số bác bỏ. Ngày nay, luật tình dục dựa trên đánh giá đạo đức có xu hướng bị chỉ trích nhiều hơn so với luật tình dục dựa trên “sự bảo vệ.”

    Không ở đâu vấn đề luật tình dục lại rõ ràng hơn trong tài liệu giáo dục giới tính tại các trường công và công nghệ sinh sản mới cho phép thụ thai theo cách thức phi truyền thống. Vấn đề thực hiện giáo dục giới tính sẵn có ở trường công đặc biệt phức tạp đối với các bậc cha mẹ và các nhóm dân cư. Bắt đầu vào những năm 60 thế kỷ 20, khi chương trình giáo dục giới tính đầu tiên được xây dựng và thực hiện ở trường cấp hai và đại học, rất nhiều cá nhân và nhóm (chủ yếu là các bậc phụ huynh quan tâm, nhiều nhóm tôn giáo) đã công kích luật cho phép giáo dục giới tính ở trường học. Những người phản đối thường tranh luận giáo dục giới tính ở nơi công cộng, dựa vào nền tảng đạo đức, họ tin rằng trong một số trường hợp, việc giáo dục về đạo đức và tình dục là trách nhiệm của cha mẹ, và trong các trường hợp khác giáo dục giới tính phi giá trị còn thúc đẩy tình dục bừa bãi. Trong khi những phán quyết của toà án dấy lên quyền của trường học để được giáo dục giới tính, thì những người phản đối lại tiếp tục chống lại việc giáo dục này – vận động hành lang, biểu tình, thuyết phục uỷ ban trường học địa phương và chính quyền để thay đổi hay từ bỏ việc giáo dục giới tính khỏi các chương trình học. Những người ủng hộ tin rằng số lượng lớn các trường hợp mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục mới và mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên mỗi năm khiến cho nhu cầu giáo dục giới tính ở trường công, là thích hợp và khẩn cấp. Họ tiếp tục tiến tới với chương trình giáo dục giới tính mới được thiết kế để đáp ứng những gì họ cho là cần thiết cho sinh viên ngày nay. Những năm đầu thế kỷ 21 đang chứng kiến sự phát triển các chương trình học thúc đẩy việc đưa ra quyết định về tình dục – từ lợi ích của việc kiêng kỵ đến hướng dẫn làm sao để sử dụng phương pháp tránh thai và thực hiện tình dục an toàn hơn.

    Những đạo luật liên quan tới việc mang thai khá phổ biến ở Mỹ. Vào những năm 70 thế kỷ 19, Luật Comstockcấm mọi người gửi thông tin về phương pháp tránh thai hay dụng cụ tránh thai. Gần đây, vào những năm 60 thế kỷ 20 ở cả hai bang Massachusetts và Connecticut đưa ra luật quy định rằng việc thực hiện tránh thai khi giao hợp là bất hợp pháp, mặc dù Toà án tối cao cuối cùng cũng đã cấm luật này vì nó trái với hiến pháp. Những cuộc tranh luận ở toà án gần đây đã nêu lên vấn đề về việc liệu các bang có thể, hay nên triệt sản đối với những người thiểu năng phát triển chống lại ý nguyện của họ. Các cuộc tranh cãi ở toà án cũng diễn ra ác liệt về vấn đề luật pháp quy định rõ độ tuổi một cô gái có thể mua thuốc tránh thai và nạo thai mà không cần sự cho phép của cha mẹ, hay không cần cho cha mẹ biết. Mặc dù toà án tối cao năm 1973 đã quy định nạo thai là hợp pháp nhưng những người làm luật tiếp tục đưa ra vấn đề luật pháp nhằm giới hạn hay loại trừ hiệu lực của luật này. Còn quy định sinh đẻ mới thì sao? Loại vấn đề luật pháp nào sẽ nảy sinh, ví dụ, để đáp ứng vấn đề làm mẹ thay thế và thụ tinh trong ống nghiệm? Chắc chắn là còn nhiều điều nữa. Có lẽ điều khiến cho vấn đề trở nên phức tạp nhất là thực tế: hầu hết các công nghệ mới đều giới thiệu phương trình “bữa tiệc bên ngoài” cho những đôi muốn có con. Người ngoài này hiến tặng tinh trùng hoặc trứng, hay cô ta cung cấp tử cung trong thời kỳ mang thai. Kết quả là việc này khiến cho vấn đề trở nên phức tạp, nhất là thực tế: hầu hết các công nghệ mới đều giới thiệu phương pháp “bữa tiệc bên ngoài” cho những đôi muốn có con. Người ngoài này hiến tặng tinh trùng hoặc trứng, hay cung cấp tử cung trong thời kỳ mang thai. Kết quả là việc này khiến nảy sinh những vấn đề về quan hệ huyết thống và trách nhiệm pháp lý. Đối với đứa trẻ được thụ thai và sinh ra do sự kết hợp của các quy trình tiên tiến thì cha nó là ai? mẹ nó là ai? Cha mẹ nó là ai? Về mặt lý thuyết năm cha mẹ riêng biệt có thể liên quan – người tặng tinh trùng, người cho trứng, người mẹ mang thai, và cặp vợ chồng nuôi đứa trẻ. Hay có ba cặp cha mẹ có thể liên quan – cha mẹ di truyền, cha mẹ mang thai và cha mẹ xã hội.

    Những câu hỏi quan trọng khác cũng nảy sinh. Điều gì sẽ xảy ra đối với những phôi thêm còn lại nếu chỉ một trong số chúng được thụ tinh thành công? Cặp cha mẹ nào nhận sự giám hộ các phôi đông lạnh trong thời gian tiến hành ly hôn? Cha mẹ nhận nuôi có những quyền nào chống lại cha mẹ sinh học? Có phải bất cứ cặp cha mẹ nào cũng có quyền thăm nom? Ai sẽ nuôi dưỡng đứa trẻ nếu cha mẹ nhận nuôi ly dị hoặc chết sớm? Cuối cùng liệu đứa trẻ được nhận nuôi có được nói cho biết nó là con nuôi không? Nếu được thì ai sẽ nói và nói khi nào? Nếu không, ai sẽ đảm bảo giữ bí mật và giữ bí mật bằng cách nào? Ai trong số vài cặp cha mẹ tiềm năng sẽ trông non đứa trẻ nếu nó bị dị tật? Thêm vào tất cả những điều trên là vấn đề về các gia đình mở rộng và gia đình không huyết thống của tất cả những cặp “cha mẹ” này, và chúng nhanh chóng trở thành chứng cớ làm sáng tỏ về mặt luật pháp tình trạng phức tạp của những mối quan hệ tiềm năng, chưa cần đề cập tới tránh nhiệm và quyền lợi của họ.

    Cuối cùng, và có lẽ điều có ý nghĩa nhất là câu hỏi: Ai đang quyết định tất cả các điều này? Luật sư? Bác sĩ? Nhà giáo dục? Nhà khoa học? Linh mục? Giáo sĩ? Không có câu trả lời dễ dàng. Luật sư phải, bằng định nghĩa, xác định cha mẹ những đứa trẻ được sinh ra thông qua các quy định sinh sản mới. Đến nay, những người làm luật đã miễn cưỡng đảm nhận các vấn đề phức tạp này.

    ĐẠO LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC TÌNH DỤC

    Đạo lý, hay các tiêu chuẩn cá nhân đúng hoặc sai, là trung tâm giải quyết tiêu chuẩn tình dục. Đạo lý xác định một cách cơ bản quan điểm về tình dục, và nó có ảnh hưởng tới việc ra quyết định tình dục và lựa chọn cuối cùng hành vi tình dục. Ở mức độ rộng hơn, nó trở thành các quy định về tình dục thuộc đủ loại, đây là mong muốn và là điều thiết yếu mà xã hội quyết định. Đạo lý thường gắn chặt với hoặc các quan điểm của thế giới tôn giáo hoặc với quan điểm của thế giới nhân văn. Quan điểm nhân văn bắt đầu với giả thuyết rằng các nguyên tắc của con người là điều cân nhắc đầu tiên trong các vấn đề con người; quan điểm tôn giáo bắt đầu với giả thuyết rằng, việc tuân theo ý muốn của Chúa là điều phải cân nhắc đầu tiên. Trong vấn đề nhân văn, Nguyên Tắc Vàng (hay một vài sự thay đổi trong nguyên tắc đó) – “Đối xử với mọi người như bạn muốn họ đối xử với bạn” – xác định các quan điểm và hành vi. Trong vấn đề tôn giáo, những lời Chúa nói quy định điều này.

    Các nhà đạo đức nhân văn tìm kiếm định nghĩa về các quy định tình dục trên khía cạnh ứng dụng thực tế hơn là các lý tưởng tôn giáo. Ví dụ, nếu có thể được chỉ ra một cách tuyệt đối rằng tình dục trước hôn nhân là điều có hại cho hạnh phúc vợ chồng sau này thì các nhà đạo đức nhân văn sẽ chỉ trích hành động đó dựa trên hậu quả tiêu cực của nó. Trong khi đó, các nhà đạo đức tôn giáo, tuy không nhất thiết tán thành với quan điểm của các nhà đạo đức nhân văn nhưng họ lên án tình dục trước hôn nhân chủ yếu dựa trên việc vi phạm các điều cấm của Chúa. Chỉ có một số ít người ủng hộ hoàn toàn một quan điểm này hay một quan điểm kia.

    Đạo lý tình dục bắt nguồn từ đâu? Câu trả lời đối với các cá nhân tôn giáo và các cá nhân nhân văn là giống nhau. Mọi người học đạo lý và các giá trị – tình dục hay thứ khác – từ những người gần gũi nhất với họ và từ thế giới xung quanh. Gia đình, bạn bè, giáo viên, mục sư, sách báo, ti vi, phim ảnh, âm nhạc, tạp chí – bất cứ ai và bất cứ điều gì mà ở đó con người được bộc lộ, đóng góp vào đạo lý tình dục. Điều này được thể hiện rõ ràng trong quan hệ giữa sự thể hiện về tình dục của các phương tiện truyền thông và sự ra tăng tương ứng của hoạt đông tình dục. Con gà hay quả trứng? – Ai biết? Điều chắc chắn là trong khi nhanh chóng thúc đẩy những quan điểm vô tư, tự do trong tình dục, thì phương tiện truyền thông giải trí cũng nhanh chóng tránh việc giải quyết những vấn đề liên quan đến tình dục bừa bãi. Hiếm khi chúng thể hiện hậu quả tiêu cực của hành vi tình dục bừa bãi, chẳng hạn như việc mắc phải các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Tình dục là sự thể hiện tình yêu và sự lãng mạn nhưng nó cũng cần phải thể hiện sự trưởng thành và trách nhiệm.

    Sinh học liên quan đến tình dục đã thẳng thắn rồi. Nhưng một người lựa chọn hành động ra sao trong một tình huống nhất định rút cục lại là một câu hỏi về đạo đức – câu hỏi đưa chúng ta tới một sự xung đột tiềm ẩn giữa tôn giáo và nhân văn. Đây không phải là một vấn đề; hai quan điểm này vẫn có thể đồng thuận và thực hiện cùng với nhau. Ví dụ, một nhà đạo đức nhân văn, cảnh báo về tỷ lệ mắc bệnh tình dục và mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên cao cùng với những liên hệ tiêu cực như việc những người mang thai trở thành các bà mẹ, những đứa con của họ, và xã hội, có thể sẽ đồng ý với nhà đạo đức tôn giáo khi người này tranh luận về việc cần hạn chế tình dục ở lớp trẻ.

    Đạo đức là nguyên tắc tự điều chỉnh mà mọi người sử dụng để ra quyết định về hành vi của mình. Có hai loại đạo đức cơ bản: đạo đức nghề nghiệp và đạo đức cá nhân. Mặc dù luật pháp cho phép xã hội như là một tổng thể điều chỉnh hành vi của các thành viên trong nó, nhưng đạo đức nghề nghiệp lại là nguyên tắc tự điều chỉnh, xác định nghề nghiệp và hành vi được mong muốn của các thành viên. Nhiều tổ chức nghề nghiệp khác nhau như Hiệp Hội Tâm Lý Học Mỹ và Hiệp Hội Các Nhà Sư Phạm, Luật Sư, Bác Sĩ về Tình Dục Mỹ đã phát triển các nguyên tắc đạo đức với mục tiêu đảm bảo rằng các thành viên sẽ sử dụng một cách thích hợp các kỹ năng và kỹ thuật.Đạo đức cá nhân cũng là nguyên tắc tự điều chỉnh – mọi người sử dụng để ra các quyết định trong cuộc sống hàng ngày.

    Giá trị đạo đức nằm ở trung tâm đạo lý, có thể hoặc không đưa vào suy xét hoàn cảnh xã hội mà hành vi xuất hiện. Việc đưa ra quyết định cá nhân dựa vào hoàn cảnh xã hội được gọi là đạo đức theo hoàn cảnh hay đạo đức theo tình huống. Một ví dụ về điều này là một cá nhân xác định hành vi tình dục là đúng hay sai dựa trên hoàn cảnh của anh ta hay cô ta. Ngược lại, việc đưa ra quyết định cá nhân dựa trên sự tôn trọng tập hợp các quy tắc cố định gọi là đạo đức nghĩa vụ.Một ví dụ về điều này là một cá nhân xác định hành vi tình dục đúng hay sai dựa trên đức tin và sách vở tôn giáo. Đạo đức nghĩa vụ và đạo đức theo hoàn cảnh là hai đầu của một thể liên tục, trên thể đó việc đưa ra quyết định cá nhân của nhiều người nằm đâu đó ở điểm giữa của hai đầu.

    Những điều luật kỳ lạ về sex

    SỰ ÉP BUỘC TÌNH DỤC VÀ LUẬT PHÁP: CƯỠNG ĐOẠT, LOẠN LUÂN VÀ QUẤY RỐI TÌNH DỤC

    Lĩnh vực quan trọng đặc biệt mà luật pháp quan tâm đó là cưỡng đoạt tình dục, hay những hành vi, áp lực, bình phẩm mang tính cưỡng ép người khác. Ở những trang tiếp theo, ba biểu hiện khó chịu đặc biệt của hành vi tình dục bắt ép được đề cập đến là: cưỡng đoạt, loạn luân, và quấy rối tình dục.

    Cưỡng đoạt

    Như đã lưu ý ở trên trong chương này, luật pháp bảo vệ con người khỏi những hành vi tình dục không mong muốn là điều thích hợp và cần thiết. Điều này hoàn toàn đúng với trường hợp cưỡng đoạt (bắt nguồn từ tiếng Latinrapere, có nghĩa là “ăn cắp”). Cưỡng đoạt là bạo lực tình dục bắt buộc của một người (thường là nam) đối với một người khác (thường là nữ). Với một số người, cưỡng đoạt là tội ác bạo lực và nó không phải là tình dục. Với người khác, nó là tội ác mang cả tính bạo lực và tình dục.

    Ở một số bang, thuật ngữ cưỡng đoạt ám chỉ duy nhất sự đưa dương vật vào âm đạo, nhưng ở hầu hết các bang nó ám chỉ bất kỳ sự ép buộc giao hợp của những người cùng giới hay khác giới để thực hiện bất kỳ dạng hành vi tình dục nào. Mặc dù cưỡng bức vượt qua mọi ranh giới – tình trạng hôn nhân, tuổi tác, kinh tế xã hội, chủng tộc – nhưng phụ nữ da trắng, độc thân ở tuổi vị thành niên và tầm tuổi 20 là những người có nguy cơ trở thành nạn nhân lớn nhất. Theo Bản Tóm Tắt Thông Kê của Mỹ, hầu hết người phạm tội hiếp dâm là đàn ông tuổi từ 18 đến 44.

    Trong những năm gần đây, tỷ lệ hiếp dâm đã tăng lên, nhưng nhà chức trách tin rằng đó là do có nhiều phụ nữ tường trình về tội phạm hơn. Mặc dù vậy, nhiều nạn nhân không bao giờ tường trình về hiếp dâm hay đưa ra lời buộc tội. Tại sao vậy? Họ lo sợ lại trở thành nạn nhân nữa, hay họ sợ tốn thời gian ở tòa án. Họ sợ bị xã hội sỉ nhục khi công khai mình là nạn nhân bị cưỡng bức hay khi để mọi người biết với bản tường trình về việc bị cưỡng bức. Họ có thể nhận thấy cơ hội chiến thắng lúc kết án là rất thấp. Họ có thể cảm thấy bị tổn thương tâm lý và khô cạn cảm xúc. Hay họ có thể cảm thấy bẩn thỉu, tội lỗi và đồi bại, đưa tới kết luận sai lầm rằng hành vi hay cách ăn mặc của họ vô tình biểu thị mong muốn bị cưỡng bức tình dục.

    Bởi mâu thuẫn trong tư tưởng khi tường trình về việc cưỡng bức (không đề cập tới những luận điểm cưỡng đoạt sai lầm và những vấn đề cố hữu xác định “sự cưỡng bức”), nên có thể chúng ta không bao giờ biết được chính xác số vụ cưỡng bức ở Mỹ. Theo Bản tóm tắt thống kê Mỹ thì số vụ cưỡng bức xảy ra vào khoảng hơn 95 trên 100,000 thiếu nữ ở độ tuổi từ 12 trở lên. Một ước tính khác cho rằng khoảng 15 tới 25% số phụ nữ ở Mỹ đã và sẽ là nạn nhân của sự cưỡng bức.

    Cưỡng bức hầu như không phải là một hiện tượng có căn nguyên gần đây. Bởi đàn ông có truyền thống đối xử với phụ nữ giống một “tài sản” hơn là con người, xã hội nhìn nhận việc lạm dụng phụ nữ là tội ác thấp hơn so với tội ác lạm dụng, ngược đãi cha, chồng hay “ông chủ” của họ. Tuy nhiên, điều này đã bắt đầu thay đổi trong những năm gần đây. Ví dụ, toà án một số bang có quy định rằng một phụ nữ có thể buộc chồng cô ta tội cưỡng bức nếu như anh ta bắt cô quan hệ tình dục.

    Mặc dù vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Nhưng bây giờ, những nạn nhân bị cưỡng bức tình dục có thể dễ dàng buộc tội những kẻ tấn công họ, tuy nhiên chiến thắng khi kết án ở tòa vẫn còn là việc khó khăn. Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, hệ thống luật pháp vẫn thường quay lưng lại với những nạn nhân bị cưỡng bức, luật pháp cho rằng nạn nhân thực sự “mời mọc” sự tấn công và hay nhắc đến các hành vi trong quá khứ của nạn nhân hơn là hành động phạm tội chống lại họ.

    Có sáu dạng cưỡng bức cơ bản: cưỡng bức người ngoài, cưỡng bức tập thể, cưỡng bức người quen, cưỡng bức khi hẹn hò, cưỡng bức bạn đời, và cưỡng bức do luật pháp quy định.

    Cưỡng bức người ngoài thường là sự cưỡng bức bạo lực nhất trong sáu dạng trên. Nạn nhân phải trải qua điều cực kỳ tồi tệ và thậm chí cả những tổn thương chết người, do việc sử dụng dao, súng và các loại vũ khí khác. Trong nhiều trường hợp, thủ phạm của cưỡng bức người ngoài chọn lựa nạn nhân một cách cẩn thận, chúng vạch kế hoạch về thời gian và địa điểm tốt nhất cho sự tấn công. Cưỡng bức tập thể xảy ra khi có hai hay nhiều thủ phạm, hoặc người lạ hoặc người quen, phạm tội cưỡng bức.

    Thủ phạm của cưỡng bức người quen là một người mà nạn nhân biết – đồng nghiệp, hàng xóm hay một ai đó có sự liên hệ cá nhân với anh ta, cô ta. Những nghiên cứu nhận thấy cưỡng bức người quen xảy ra nhiều hơn so với bất kỳ dạng cưỡng bức nào khác. Thủ phạm cưỡng bức người quen có thể sử dụng các cách thức ép buộc như doạ dẫm, đe doạ, nói dối và gây mê nạn nhân – nhiều hơn là đe dọa nạn nhân bằng dao hay súng.

    Một loại đặc biệt của cưỡng bức người quen là cưỡng bức khi hẹn hò, trong trường hợp này thủ phạm là một đối tượng hẹn hò. Cưỡng bức khi hẹn hò có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào trong suốt thời gian tìm hiểu, từ lần hẹn hò đầu tiên cho đến sau khi mối quan hệ ổn định đã hình thành. Cưỡng bức khi hẹn hò thường xảy ra khi một hay cả hai người uống rượu hay dùng ma tuý, hay khi một người nói “không” với áp lực tình dục từ người kia mà người kia có ý “có” hay “có thể.”

    Một số bang không công nhận tội cưỡng bức bạn đời (hay cưỡng bức giữa chồng và vợ) trừ khi nó xảy ra giữa những cặp vợ chồng đã chia tay hay việc cưỡng bức đó dẫn tới tổn thương nghiêm trọng. Mức độ thường xuyên của cưỡng bức bạn đời có thể lên tới 2 triệu trường hợp một năm. Một ước tính khác cho thấy có khoảng 1 trên 7 người vợ sẽ là nạn nhân của sự cưỡng bức bạn đời. Mặc dù sự lạm dụng và tính tàn bạo là thường xảy ra ở trường hợp cưỡng bức bạn đời, nhưng việc truy tố lại là điều rất hiếm.

    Cưỡng bức bạn đời là một khía cạnh của vấn đề lớn hơn, đó là lạm dụng vợ, chồng. Thống kê cho thấy, mỗi năm gần 1 triệu phụ nữ ở Mỹ phải đi điều trị y học cho những tổn thương liên tục do chồng đánh đập, và có gần 1000 phụ nữ bị chồng giết hại mỗi năm. Nghiên cứu đã chứng minh có sự liên hệ giữa cưỡng bức bạn đời và bạo lực đối với bạn đời. Những người chồng ngược đãi vợ là những người có nhiều khả năng sẽ cưỡng bức họ. Nhiều người vợ phản ứng lại khi chồng ngược đãi hay cưỡng bức họ bằng sự tức giận, những người khác phản ứng bằng cách tự đổ lỗi cho bản thân.

    Hành vi tình dục giữa một người trưởng thành và trẻ vị thành niên, thậm chí cả nếu có sự chấp thuận, được coi làcưỡng bức do luật pháp quy định hay sự gạ gẫm trẻ em. Cưỡng bức do luật pháp quy định xảy ra khi sự giao cấu liên quan tới một người dưới tuổi kết hôn theo luật pháp, là tuổi từ 16 đến 18 ở hầu hết các bang. Tại sao là “cưỡng bức,” đặc biệt nếu cả hai bên đồng ý quan hệ tình dục? Nhà chức trách cho rằng trẻ vị thành niên chỉ có hiểu biết giới hạn về tình dục, có nghĩa là chúng không có khả năng hiểu biết, không có những quyết định đúng đắn về những tác động qua lại liên quan đến tình dục. Hành động bị ép buộc hay tự nguyện ở đây không có liên quan đến nhau. Vấn đề chính là sự xâm hại một người quá trẻ, họ chưa hiểu những rắc rối, phức tạp về tình cảm và thể chất liên quan đến quan hệ tình dục. Vấn đề liên quan đến việc trường hợp nào được coi là cưỡng bức do pháp luật quy định là rõ ràng khi một người đàn ông 46 tuổi quan hệ với một em gái 14 tuổi, nhưng rất không rõ ràng khi một cô gái 18 tuổi quan hệ tình dục với một chàng trai 17 tuổi trong hai năm.

    Cũng nên chú ý rằng cưỡng bức không chỉ là tội ác chống lại phụ nữ.Đàn ông cũng bị cưỡng bức – nói chung, họ bị người đồng tính cưỡng bức qua đường hậu môn nhưng cũng đôi khi họ bị phụ nữ cưỡng bức. Điều này rất phổ biến trong tình cảnh nhà tù, cưỡng bức đàn ông do người đồng giới gây ra hiếm khi được thông báo hay bị khởi tố. Đàn ông bị người đồng giới cưỡng bức không thực sự là đồng tính luyến ái, cũng không nhất thiết để thoả mãn nhu cầu tình dục mà vì để thể hiện sức mạnh và thể hiện địa vị thống trị với người khác, ví dụ: điều này xảy giữa các bạn tù.

    Phụ nữ có bao giờ cưỡng bức đàn ông? Có, nhưng không điển hình. Trong một nghiên cứu với 204 sinh viên đại học, khoảng 22 % nam giới tường trình mình là nạn nhân bị ép buộc quan hệ tình dục ít nhất một lần. Bởi phụ nữ về phương diện giải phẫu không được trang bị cho hành vi cưỡng bức vũ lực trong ý thức thông thường, nên người phụ nữ đi cưỡng bức thể hiện áp lực tâm lý để lôi kéo nam giới vào hành vi tình dục không mong muốn.

    Trong một số trường hợp, người ta biết phụ nữ sử dụng vũ khí để trói buộc nạn nhân nam giới và sau đó đe dọa gây tổn thương, thiến hay giết họ nếu họ không “thực hiện.” Một chuyện hoang đường phổ biến là đàn ông không có khả năng thực hiện, duy trì sự cương cứng và tham gia vào hành động tình dục khi bị đe doạ gây tổn thương, hay doạ giết khi bị cưỡng bức. Thực tế, họ có thể cương cứng và xuất tinh do bắt buộc. Trong các trường hợp khác, phụ nữ đảm nhiệm chức năng là kẻ đồng loã với tội phạm cưỡng bức đàn ông.

    Suy nghĩ cá nhân: Tại sao bạn nghĩ nạn nhân nam giới bị cưỡng bức dường như ít tường trình về việc mình bị tấn công tình dục hơn so với nạn nhân nữ?

    Các nhà tâm lý học đã nghiên cứu những kẻ cưỡng bức đã bị kết án để xác định sơ lược tính cách kẻ phạm tội. Có dạng tính cách nào đó điển hình cho kẻ cưỡng bức thông thường hay không?. Tướng mạo, chủng tộc, thu nhập đều là những yếu tố không liên quan. Mặc dù những người trẻ tuổi trong giai đoạn cuối thời niên thiếu và trước 20 tuổi có vẻ dính dáng nhiều hơn đến cưỡng bức nhưng đàn ông ở tất cả các lứa tuổi đều có thể phạm tội cưỡng bức. Không giống các anh hùng điển trai trong những tiểu thuyết lãng mạn, thông thường họ cưỡng bức nạn nhân trong khung cảnh tuyệt đẹp hay trong chiều hướng xã hội đói khát tình dục, đàn ông tấn công nạn nhân trong ngõ tối, mà trên thực tế kẻ cưỡng bức “thực sự” giống một người đàn ông bình thường. Một số kẻ đẹp trai và một số thì không. Nhiều người đã có gia đình. Nói cách khác, nghiên cứu đã đưa ra được rất ít những mô tả sơ lược về đặc điểm kẻ cưỡng bức.

    Những người coi phụ nữ là “kẻ thù” không đáng tin hay những người bị phụ nữ làm cho mệt mỏi trong công việc hay ở nhà trường sẽ là những người có nhiều khả năng sẽ trở thành kẻ cưỡng bức phụ nữ. Những kẻ cưỡng bức có thể có tư tưởng hạ thấp bản thân, lo lắng ở mức độ cao, cay đắng và tức giận. Đối với những người đàn ông này, cưỡng bức trở thành cách đặt phụ nữ vào hoàn cảnh của họ, bù đắp cho những cảm xúc coi mình thấp kém hơn, và thể hiện sự tức giận sâu kín.

    Những kẻ cưỡng bức được chia thành bốn dạng: kẻ cưỡng bức vì tức giận, kẻ cưỡng bức để thể hiện sức mạnh, kẻ cưỡng bức ác độc và kẻ cưỡng bức vì tình dục.

    Cưỡng bức vì tức giận. Đôi khi cưỡng bức giúp giải toả sự tức giận.Những người đàn ông cảm thấy bị phụ nữ coi nhẹ hay làm nhục có thể lựa chọn để giải toả cơn thịnh nộ qua hành động cưỡng bức. Bằng cách ép buộc nạn nhân tham gia vào hành vi tình dục họ làm nhục nạn nhân, thực hiện việc trả thù cho những tổn thương trước đây – do tưởng tượng hay thực tế.

    Cưỡng bức để thể hiện sức mạnh. Những kẻ cưỡng bức dùng hành vi này với ý nghĩa đạt được sức mạnh. Nó trở thành cách thức duy nhất để họ cảm thấy mình có ưu thế và đang kiểm soát. Những người đàn ông này nâng cao bản ngã yếu hèn bằng cách bắt người khác phục tùng ý nguyện của họ. Sự cưỡng bức xảy ra thường xuyên và có kế hoạch.

    Kẻ cưỡng bức ác độc. Không có khả năng hưởng thụ cuộc sống tình dục thông thường, một số kẻ cưỡng bức chỉ có được sự thoả mãn tình dục bằng cách tra tấn ác độc bạn tình. Nạn nhân thường bị trói và sau đó phải chịu sự lạm dụng bằng thể xác và lời lẽ một cách tàn nhẫn, bao gồm đe doạ, đánh đập, đay nghiến, thiêu đốt, cắn xé. Nhầm lẫn giữa tình dục và sự tàn bạo, những kẻ cưỡng bức ác độc nhận thấy chỉ có cưỡng bức mới giải toả tình dục của chúng.

    Cưỡng bức vì tình dục. Những kẻ cưỡng bức vì tình dục là những người thích thú có được sự thoả mãn tình dục với bất cứ giá nào. Họ sẵn sàng lôi kéo, lăng nhục, hăm doạ, dùng lời lẽ đe doạ và họ có thể gây mê nạn nhân để đạt được mục đích của mình. Phần lớn những kẻ cưỡng bức người quen hay cưỡng bức khi hò hẹn được xếp vào loại này.

    Con người cưỡng bức vì lý do gì? Có phải do ảnh hưởng của văn hoá, xã hội, tâm lý hay do sự kết hợp của cả ba yếu tố nói trên? Đối với hầu hết hành vi của con người, động cơ ẩn sau hành động là tuỳ thuộc vào bản chất của kẻ cưỡng bức.

    Có lẽ có một lý do để có thể có thái độ khoan dung đối với hành vi cưỡng bức “bình thường”. Nhà chức trách cho rằng một số ảnh hưởng văn hoá xã hội khác nhau khiến cho hành vi cưỡng bức có thể chấp nhận được đối với một số cá nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất định. Nhiều cuộc khảo sát đã được thực hiện giữa các nhóm người khác nhau- về mặt tuổi tác, chủng tộc hay tình trạng kinh tế – cho thấy nhiều người Mỹ cho rằng một người đàn ông có quyền ép buộc phụ nữ quan hệ tình dục nếu (1) anh ta biết cô ta một thời gian và đã chi một số tiền lớn cho cô ta, hoặc (2) anh ta cảm thấy mình bị kích thích do trang phục, hành vi của người phụ nữ đó. Các nhà khoa học xã hội nhằm vào điện ảnh, phim, sách và lời bài hát, cho rằng chúng chuyển tải đi các thông điệp: cưỡng bức tình dục có thể chấp nhận và thậm chí là điều được trông đợi.

    Các quyết định của toà cũng củng cố quan điểm như vậy, toà quyết định kẻ cưỡng bức được tha bổng do nạn nhân “yêu cầu điều đó” bằng hành vi và trang phục khêu gợi, hay bởi cô ta không đủ cố gắng kháng cự, chống lại những lời tán tỉnh của kẻ cưỡng bức. Những người bênh vực phụ nữ lý luận rằng nạn nhân cướp bóc không bao giờ bị đổ lỗi cho việc họ bị cướp là do họ mang theo một chiếc sắc lớn, họ cũng không bao bị nghi ngờ do nỗ lực chống trả chưa đủ cả. Tuy nhiên, ở trường hợp cưỡng bức, xã hội chuyển hướng đổ lỗi cho nạn nhân – kết quả đáng buồn của việc nhận thức xã hội sai lầm liên quan tới vấn đề này.

    Tình dục và luật pháp

    Những ảnh hưởng của cưỡng bức.Nạn nhân cưỡng bức thường phải mang bộ mặt bị biến dạng vì vết cắt, mũi vỡ, những vết thâm tím, trầy xước, xương sườn gẫy, những vết cắn, chảy máu, và tổn thương bên trong. Những hậu quả tức thời này gây ra các triệu chứng tình cảm đặc trưng do phản ứng lo lắng cực độ – điều này được gọi làhội chứng tổn thương do cưỡng bức. Một số phụ nữ phản ứng bằng việc khóc, lo lắng, bồn chồn, trầm cảm và tự đổ lỗi cho bản thân. Ngoài những đau đớn do bị lạm dụng thể xác, khi bị cưỡng bức, họ còn có thể mắc các chứng bệnh khác, bao gồm rối loạn tiêu hoá, đau đầu, mất ngủ và không còn cảm giác ngon miệng. Một số phụ nữ khác cô lập bản thân đằng sau vẻ ngoài thoải mái, điềm tĩnh và vui vẻ vì họ cố gắng che giấu sự tổn thương và xáo trộn cảm xúc kìn nén bên trong.

    Nếu không có các liệu pháp tâm lý hay giúp đỡ, hậu quả này và những hậu quả khác có thể kéo dài trong suốt cuộc đời. Sợ ở nhà một mình, sợ đi bộ bên ngoài một mình, hoạt động tình dục bất thường, các chứng bệnh thần kinh, các cơn ác mộng về sự việc có thể đeo đuổi nạn nhân bị cưỡng bức trong nhiều năm. Do đó, họ cần một số phương pháp tư vấn tâm lý để dễ dàng trở lại tình trạng bình thường. Hội chứng tổn thương do cưỡng bức có thể dễ dàng chữa trị hơn nếu được điều trị ở giai đoạn đầu khi nó mới phát triển. Nhiều văn phòng cảnh sát địa phương thuê luật sư chuyên về cưỡng bức để hỗ trợ nạn nhân thông qua quá trình luật pháp và y tế. Cả các buổi tư vấn cá nhân lẫn các nhóm trợ giúp nạn nhân cưỡng bức đều cung cấp môi trường an toàn, đó là nơi nạn nhân có thể thảo luận về các vấn đề cảm xúc của họ.

    Ngăn chặn cưỡng bức.Vì nguyên nhân của việc cưỡng bức thường bắt nguồn từ quan điểm văn hoá xã hội hơn là từ sự hối thúc mang tính sinh học, do đó nỗ lực ngăn chặn thành công dường như nằm ở các chương trình giáo dục, những thay đổi trong các thông điệp được phổ biến rộng rãi bởi phương tiện thông tin đại chúng. Ví dụ, hiện tượng cưỡng bức xảy ra ít hơn trong các xã hội coi trọng các giá trị cho và nhận, phi bạo lực, và bình đẳng giữa nam và nữ. Ngược lại, cưỡng bức dường như lan tràn ở xã hội coi trọng và ganh đua bạo lực, coi trọng quan điểm nam tính và bất bình đẳng về kinh tế và chính trị.

    Đối với các chiến lược chống lại sự lan tràn của các quan điểm dễ dãi và nhận thức xã hội sai lầm, người Mỹ nên nghi ngờ điều hoang đường rằng phụ nữ thích giữ bí mật chuyện bị cưỡng bức. Không được coi việc ăn mặc khêu gợi, đi ra ngoài một mình sau khi tối trời đó là lời mời tình dục. Đối lập với khuôn mẫu thông thường, hầu hết đàn ông có thể kiểm soát hành vi tình dục của mình, thậm chí ở cả mức độ khêu gợi đỉnh điểm. Các cá nhân có một sự lựa chọn. Không bao giờ cần bạo lực.

    Phụ nữ cũng vậy, cần học để hiểu biết về cưỡng bức và làm sao để ngăn chặn nó. Những bài học làm sao dứt khoát nói “không” với kẻ sẽ định cưỡng bức là hữu ích. Rất nhiều phụ nữ dựa vào một từ “không”, nhưng trên thực tế, nó trở thành “có thể.” Học cách nói “Có” hay “Không” rõ ràng mang tính mệnh lệnh đối với giao tiếp hiệu quả. Hiểu rằng trải nghiệm tình dục tốt nhất là trải nghiệm liên quan tới sự đồng ý của cả hai bên, không phải sự “lấn át” hay “chế ngự” của ai đó được lãng mạn hoá tầm thường trên phương tiện truyền thông, phụ nữ không bao giờ cần đặt quyết định quan hệ tình dục của mình trong sự kiểm soát của ai đó khác.

    Để chuẩn bị cho các trường hợp bị người ngoài tấn công, hay những lúc dứt khoát nói “không” thất bại, phụ nữ nên tham dự các khóa huấn luyện tự bảo vệ. Các nhà chức trách vẫn chưa đi đến sự thống nhất xem đâu là phương pháp hiệu quả nhất nhưng họ đều ủng hộ sự kết hợp các chiến lược – từ việc tranh luận đến cùng tới việc giả vờ ốm – các phương pháp này có thể có tác dụng trong một số trường hợp. Mặc dù sự kháng cự thể xác có thể kích động kẻ cưỡng bức trở nên bạo lực hơn, nhưng những phụ nữ tích cực chống lại kẻ tấn công có nhiều cơ hội ngăn chặn kẻ tấn công tiềm tàng hơn là không làm gì.

    Giáo dục về cưỡng bức, thông tin hay cách tự bảo vệ, phải mở rộng tới tất cả nam giới và nữ giới – từ học sinh, sinh viên ở trường trung học và đại học tới những tù nhân ở trong tù. Nhưng cũng không chỉ dừng ở đó. Những bộ phim, lời bài hát và các chương trình truyền hình phổ biến miêu tả bạo lực tình dục và hạ thấp phụ nữ đã thúc đẩy quan điểm và khuôn mẫu sai lầm về mặt văn hoá. Phương tiện thông tin đại chúng cần phải thay đổi thông điệp từ chấp nhận ép buộc bạo lực thành đẩy mạnh sự tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Chỉ khi quan điểm văn hoá thay đổi, các đạo luật dung thứ việc cưỡng bức, ép buộc, trừng phạt nhẹ sẽ chỉ còn là hiện thực trong quá khứ.

    Suy nghĩ cá nhân :

    Chuyện phi lý mang tính xã hội nào góp vào những niềm tin sai lầm rằng (1) nạn nhân cưỡng bức có trách triệm trong việc họ bị tấn công do cách họ nói chuyện, ăn mặc và hành động; và rằng (2) họ thích giữ kín việc bị ép buộc tình dục?Chuyện phi lý mang tính xã hội có thể ảnh hưởng tới người làm luật như thế nào khi họ đặt ra và thông qua luật cưỡng bức?Những chuyện phi lý như vậy có thể ảnh hưởng tới cách hệ thống toà án giải quyết việc nạn nhân cưỡng bức như thế nào?

    Lạm dụng tình dục trẻ em và Loạn luân

    Lạm dụng tình dục trẻ em xảy ra khi một người trưởng thành hay thiếu niên dụ dỗ hay ép buộc trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục.Từ việc tiếp xúc đơn giản đến đưa dương vật vào hậu môn, miệng, hay âm đạo. Lạm dụng tình dục trẻ em bị cấm đoán về mặt văn hoá ở hầu hết các nơi trên thế giới và đây là hành vi phạm pháp ở tất cả các bang ở Mỹ. Các chuyên gia ước tính rằng khoảng 25% em gái và 10 đến 15% em trai ở Mỹ bị lạm dụng tình dục.

    Mỗi bang ở Mỹ cũng có luật chống lại loại lạm dụng trẻ em đặc biệt đó là Loạn luân (bắt nguồn từ tiếng La tinhincestus, có nghĩa “dơ bẩn”), đây là hành vi tình dục giữa những người có quan hệ họ hàng gần gũi ở bất kỳ lúa tuổi nào. Mục đích cơ bản của những luật này là để bảo vệ trẻ em chống lại hành vi, lạm dụng và khai thác tình dục ép buộc do những thành viên trong gia đình và họ hàng gần gũi gây ra. Lạm dụng tình dục trẻ em là loạn luân khi kẻ lạm dụng là họ hàng, mặc dù không nhất thiết phải có quan hệ huyết thống, điều này lý giải tại sao đôi khi cha dượng thường được gọi ra hầu tòa vì tội gạ gẫm con riêng của vợ. Những kẻ gây ra tội loạn luận thường là đàn ông, nạn nhân của chúng thường là các em gái nhỏ.

    Đáng buồn, hầu hết trẻ em sẵn lòng tham gia vào sự lạm dụng. Bởi chúng khâm phục hay yêu kính người lớn và có thể chúng không hiểu hết những gì đang xảy ra, chúng làm như được bảo. Nếu chúng bắt đầu hiểu hay nếu chúng phản đối, sự đe nẹt và doạ dẫm bạo lực làm chúng giữ im lặng và phục tùng.

    Hầu hết người Mỹ nghĩ sự lạm dụng giữa bố và con gái là dạng phổ biến nhất của sự loạn luân, thực tế khi lạm dụng giữa chú, bác cháu gái, anh chị em ruột có thể thường xuyên hay nhiều hơn. Các dạng loạn luân giữa mẹ và con trai, bố và con trai, mẹ và con gái có thể không phổ biến bằng cách dạng khác, nhưng đó là do không có đầy đủ thông tin vì một số chuyên gia tin dạng lạm dụng này có thể được tường trình ít hơn.

    Ảnh hưởng của Lạm dụng Tình dục Trẻ em và Loạn luân.Ngày nay, hầu hết nhà chức trách đều cho rằng việc lạm dụng tình dục trẻ em có hại cho sự phát triển cảm xúc của trẻ nhỏ. Những người lớn bị lạm dụng tình dục khi còn bé thường xuyên phải trải qua cảm giác xấu hổ, tội lỗi và phản bội sâu sắc. Nếu trải nghiệm là chấn thương hay sự đau đớn về mặt cảm xúc hay thể xác, nạn nhân có thể kìm nén những ấn tượng trong ký ức, chịu đựng sự trầm cảm không thể lý giải. Khi lớn lên những đứa trẻ bị lạm dụng tình dục cũng có thể mắc các chứng rối loạn tình dục. Các nhà nghiên cứu ghi nhận được rất nhiều vấn đề về tâm lý trong, ngay sau khi hoặc sau khi bị lạm dụng một thời gian dài: lo lắng, những cơn giận giữ, thu mình lại, sợ hãi, trầm cảm, có xu hướng tự sát, rối loạn ăn uống, lạm dụng vật chất, có hành vi tình dục không phù hợp với tuổi, tình dục bừa bãi. Một tác động đặc biệt tiêu cực của sự loạn luân và lạm dụng tình dục trẻ em là dạng xảy ra giữa những người trong gia đình, tồn tại giữa hai hay nhiều thế hệ. Mặc dù phạm vi và mức độ của hành vi lạm dụng tình dục trẻ em là rất lớn nhưng nhiều nạn nhân có khả năng chấp nhận trải nghiệm đó như là một sự đáng tiếc và không may mắn trong cuộc sống, họ có thể bỏ chúng lại đằng sau.

    Ngăn chặn sự Lạm dụng Tình dục Trẻ em và Loạn luân.Giáo dục có thể là cách thức ngăn chặn hiệu quả nhất đối với hành vi lạm dụng tình dục trẻ em. Trong sách giáo khoa giáo dục giới tính toàn diện, cha mẹ và các nhà sư phạm có thể dạy trẻ em sự khác biệt giữa các dạng đụng chạm phù hợp và không phù hợp. Họ cũng có thể hướng dẫn cách để tránh những đụng chạm không thích hợp, và phải làm gì nếu điều đó xảy ra.

    Suy nghĩ Cá nhân : Cha mẹ có thể làm gì để bảo vệ con cái không trở thành nạn nhân của kẻ phạm tội tình dục? Giáo viên, tăng lữ và những người đứng đầu cộng dồng có thể làm gì?

    Quấy rối Tình dục

    Những tiêu đề nổi bật đầu tiên trong đề mục tin tức của những năm 90 thế kỷ 20 là việc quấy rối tình dục được luật pháp định nghĩa là những lời tán tỉnh, gợi ý, bình phẩm hay các cử chỉ tình dục không được mong muốn diễn ra tự nhiên và trong bối cảnh quyền lực không bình đẳng (chẳng hạn giữa người lao động và người giám sát cô ta). Quấy rối tình dục xảy ra dưới nhiều dạng, dưới đây là một vài dạng phổ biến:

    • Gây áp lực công khai hay tế nhị về hành vi tình dục.

    • Nhìn chằm chằm hay liếc mắt đưa tình.

    • Chụp ảnh khiêu dâm ở nơi làm việc.

    • Quấy rối bằng lời nói.

    • Nhận xét thành kiến giới tính.

    • Những đụng chạm không cần thiết hay sờ mó lướt qua lên cơ thể một người.

    • Yêu cầu những hưởng ứng liên quan đến tình dục kèm theo sự đe dọa hàm ý hay công khai về việc sa thải hay đuổi học.

    • Tấn công thể xác.

    Phụ nữ là đối tượng phổ biến nhất của quấy rối tình dục, đặc biệt là ở nơi làm việc. Một tạp chí cho biết 42% phụ nữ thông báo là đã trải qua một số dạng quấy rối tình dục ở nơi làm việc, và con số này ở nam giới là 15%. Thực tế điều này lan tràn rất rộng ở các công sở trên nước Mỹ, nhiều phụ nữ có thể tiên lượng được điều này và chưa bao giờ bao giờ đưa ra lời cáo buộc chính thức. Nhiều người đơn giản tìm một công việc khác.

    Quấy rối tình dục không chỉ xảy ra trong phạm vi ở nơi làm việc. Sinh viên có thể chịu sức ép tình dục từ người hướng dẫn về khía cạnh điểm số, tốt nghiệp và thư giới thiệu, chúng được sử dụng như sự đe doạ hay mua chuộc tình dục. Bệnh nhân của các bác sĩ hay nhà tâm lý học có thể là đối tượng bị quấy rối tình dục từ những người trợ giúp họ. Luật sư có thể ép buộc khách hàng quan hệ tình dục để đổi lại các dịch vụ pháp lý. Thậm chí mục sư có thể thuyết phục giáo dân rằng quan hệ tình dục với giới tăng lữ là cách thức tìm thấy sự duy linh và tĩnh lặng đích thực trong tâm trí. Dường như không có cá nhân, thể chế, hay giới chức nào miễn dịch với quấy rối tình dục bởi vì các tình huống quyền lực bất bình đẳng có thể tồn tại ở bất cứ đâu. Tuy nhiên, thật may mắn, hầu hết các công ty và trường đại học hiện giờ đã có chính sách và cơ chế báo cáo giải quyết những lời khiếu nại về quấy rối tình dục.

    Ảnh hưởng của quấy rối tình dục. Ảnh hưởng của quấy rối tình dục là rất lớn và kéo dài.Với một công việc tốt được lương cao, do ảnh hưởng của vấn đề tài chính mà con người có thể chịu đựng việc bị quấy rối tình dục – những xúc cảm, hạ lương, và thậm chí mất việc – tất cả những điều này có khả năng hủy hoại lớn. Ảnh hưởng tâm lý của áp lực tình dục lên công việc, trong trường học, tại phòng khám, hay bất cứ đâu – lo lắng, sợ hãi, trầm cảm, tức giận dồn nén, và nhục nhã – cũng mang ảnh hưởng huỷ hoại không kém. Tội lỗi và xấu hổ cũng là những cảm xúc phổ biến thường thấy ở các nạn nhân của quấy rối tình dục, cũng giống nạn nhân của cưỡng bức, có thể bằng cách này hay cách khác họ cảm thấy mình có trách nhiệm. Họ băn khoăn liệu cách ăn mặc và/hoặc phong cách của họ có gây ra sự quan tâm tình dục không mong đợi hay không.

    Ngăn chặn quấy rối tình dục. Dưới góc độ là nạn nhân, việc giải quyết và ngăn chặn quấy rối tình dục ngay từ đầu dường như là không thể.Những gợi ý dưới đây được đưa ra nhằm giải quyết và ngăn chặn dạng lạm dụng tình dục này ở bất cứ đâu nó xảy ra:

    • Ngay lập tức thông báo cho người quấy rối rằng những hành động hay lời tán tỉnh của anh ta/ cô ta không được chào đón. Nếu cần gửi một bức thư bảo đảm tới kẻ quấy rối. Nếu sự quấy rối tiếp diễn, bức thư có thể sử dụng như là một bằng chứng tại toà.

    • Ghi lại toàn bộ sự việc xảy ra, chú ý tới thời gian, địa điểm và các chi tiết khác của kẻ quấy rối, bao gồm cả phản ứng của kẻ quấy rối trước sự chống cự của nạn nhân.

    • Mô tả hành vi quấy rối và tranh thủ sự hỗ trợ của đồng nghiệp đáng tin cậy, sinh viên cùng lớp hay sự giúp đỡ của chuyên gia.

    • Nếu hành vi vẫn diễn ra, ngay lập tức báo cáo điều này với cấp trên, người giám sát, quản lý, chủ nhiệm khoa của kẻ quấy rối.

    • Gửi khiếu nại tới Uỷ Ban Cơ Hội Việc Làm Công Bằng, Ủy Ban Quyền Công Dân, Hiệp Hội Giải Phóng Công Dân Mỹ, hay các tổ chức quốc gia, bang, thành phố thích hợp khác.

    • Phương sách cuối cùng, thực hiện hành động luật pháp.

    Suy nghĩ Cá nhân : Bạn đã bao giờ là nạn nhân của quấy rối tình dục nơi công sở hay ở trường học chưa? Nếu là nạn nhân, bạn giải quyết tình huống này như thế nào? Bạn phân biệt giữa hành vi quấy rối tình dục và “lời tán tỉnh vô hại” bằng cách nào?

    Tình dục

    GIẢI QUYẾT KẺ QUẤY RỐI TÌNH DỤC

    Các nhà tâm lý học, chuyên gia về tâm thần và các bác sỹ lâm sàng có nhiều phương pháp để giải quyết kẻ cưỡng bức, gạ gẫm trẻ em và tội phạm tình dục khác. Nói chung, dự đoán dài hạn về sự hoàn lương của kẻ tội phạm tình dục là rất khó khăn, bất chấp cách thức sử dụng. Xin trình bày ở đây ba cách thức phổ biến nhất.

    Bỏ tù dù có hay không điều trị

    Cách thức phổ biết nhất được sử dụng để xử lý kẻ tội phạm tình dục là tống giam, điều này liên quan tới yêu cầu tống đạt một bản án tù. Trong một số trường hợp, nhưng không phải là tất cả, kẻ phạm tội bị kết án cũng phải tham gia vào việc tư vấn cá nhân và/hay theo nhóm.

    Liệu pháp tâm lý

    Phương pháp tâm lý bao gồm từ tư vấn hỗ trợ tới liệu pháp “ác cảm”. Trong suốt thời gian sử dụng liệu pháp tâm lý động lực, nhà trị liệu xem xét những trải nghiệm thời niên thiếu của khách hàng và nhận biết sự phát triển của những bế tắc trong họ. Trong suốt thời gian sử dụng liệu pháp hành vi – nhận thức nhà trị liệu bác bỏ niềm tin phi lý của khách hàng và vạch ra những chiến lược giải quyết các ham muốn và thôi thúc tình dục không được trông đợi. Liệu pháp ác cảm là liệu pháp đưa ra cho khách hàng những kích thích xúc giác, khứu giác, thị giác rất khó chịu trong suốt thời gian hưng phấn tình dục để đáp lại những kích thích không thích hợp, chẳng hạn như những tưởng tượng kỳ quặc. Một ví dụ về liệu pháp ác cảm là sốc điện khách hàng (thường sử dụng ở bàn tay hay cánh tay) bất cứ khi nào anh hay cô ta bị kích động tình dục với suy nghĩ liên quan đến phạm tội tình dục.

    Triệt sản

    Có lẽ biện pháp ít phổ biến nhất dùng để xử lý tội phạm tình dục là triệt sản, biện pháp này liên quan đến việc phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn (“triệt sản nhờ phẫu thuật”), dùng hóa chất để phá hỏng tinh hoàn, hoặc sử dụng thuốc hay hoóc môn để ngăn chặn dục tình. Tuy nhiên triệt sản không đảm bảo tội phạm tình dục sẽ không tái phạm.

    XU HƯỚNG LUẬT TÌNH DỤC TƯƠNG LAI

    Bất kể vấn đề gì – giáo dục giới tính, các phương pháp sinh sản mới hay ép buộc tình dục – thì xã hội vẫn còn câu hỏi: Tất cả những vấn đề này sẽ dẫn đến đâu? Như đã được giải thích qua, luật pháp của xã hội qua thời gian đã thay đổi rất nhanh chóng, và chúng sẽ tiếp tục thay đổi để đáp ứng với sự thay đổi của quy tắc, tập tục và giá trị xã hội. Vì lý do này, nghiên cứu về những điều luật có thể tồn tại trong tương lai, một cách tốt nhất là công việc khó khăn.

    Tình dục ở tất cả các dạng thức đều vừa phức tạp vừa tế nhị. Rõ ràng xã hội gặp khó khăn thực sự trong việc xem xét sự đúng hay sai của một số hành vi tình dục. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc ép buộc một cá nhân tham gia vào một hành vi – tình dục hay dạng khác – là tội ác chống lại cá nhân đó – một trường hợp cụ thể. Nhưng khi nó là các lĩnh vực tình dục “khó hiểu”, thì tính phù hợp của luật tình dục trở nên kém rõ ràng hơn – trường hợp không cụ thể.

    Hiển nhiên, xã hội muốn và cần luật tình dục. Luôn luôn là như vậy, thậm chí cả khi luật tình dục này không làm cho tất cả các thành viên trong xã hội thỏa mãn. Hầu hết mọi người muốn có một định hướng có căn cứ ở chừng mực nào đó khi họ đối mặt với các vấn đề tình dục. Ở nước Mỹ hiện đại ngày nay, các định hướng có căn cứ được chuyển thành luật tình dục, vấn đề riêng tư chống lại lợi ích chung xác định tính chi tiết của luật này. Tùy thuộc vào cách hiểu những vấn đề này của xã hội, luật tình dục sẽ đóng vai trò ngăn chặn nhiều hơn hay ít hơn.

    NHỮNG ĐIỂM CHÍNH

    1. Những nhà lập pháp thông qua đủ loại luật tình dục để điều chỉnh và bảo vệ các cá nhân khỏi những chú ý, bình phẩm, cử chỉ, và hành vi tình dục không mong muốn. Ví dụ, một số bang ở Mỹ có luật thú dâm ngăn cấm “những tội ác chống lại tự nhiên”.

    2. Các luật chi phối hành vi được phác thảo trong các văn bản Cơ đốc giáo và đạo Do Thái đã trở thành nền tảng cho những tiêu chuẩn đạo đức của các quốc gia, các nền văn hoá chịu ảnh hưởng của các giá trị Judeo-Christian. Quan điểm Judeo-Christian truyền thống cho rằng trên thực tế các vấn đề về đạo đức có ảnh hưởng tới xã hội và văn hoá. Trong trường hợp này, các hành vi tình dục cũng nằm trong phạm vi thích hợp của luật pháp.

    3. Hầu hết mọi người đều cho rằng chí ít thì cũng cần có một số luật tình dục, thậm chí việc có nó còn là cần thiết. Xã hội nhìn chung đều đồng ý rằng luật chống lại các hoạt động tình dục cưỡng ép phải được ban hành và ủng hộ. Về phương diện lịch sử, luật tình dục đã phục vụ mục tiêu xã hội và chính trị, đó là duy trì nguyên trạng sự “đứng đầu” của nam giới và sự toàn vẹn trong đơn vị gia đình.

    4. Đạo lý là các tiêu chuẩn cá nhân đúng hoặc sai. Đạo lý thường gắn chặt với hoặc các quan điểm của thế giớitôn giáo hoặc với quan điểm của thế giới nhân văn, và nó có ảnh hưởng tới việc ra quyết định tình dục và lựa chọn cuối cùng hành vi tình dục. Ở mức độ rộng hơn, nó trở thành các quy định về tình dục thuộc đủ loại, đây là mong muốn và là điều thiết yếu của xã hội.

    5. Đạo đức là nguyên tắc tự điều chỉnh mà mọi người sử dụng để ra quyết định về hành vi của mình. Đạo đức nghề nghiệp là các nguyên tắc tự điều chỉnh xác định nghề nghiệp và hành vi được mong muốn của các thành viên. Đạo đức cá nhân cũng là nguyên tắc tự điều chỉnh, nhưng mọi người sử dụng chúng để ra các quyết định trong cuộc sống hàng ngày.

    6. Lĩnh vực quan trọng đặc biệt mà luật pháp quan tâm đó là cưỡng đoạt tình dục. Cưỡng bức là hành vi bạo lực tình dục ép buộc của một người với một người khác. Có sáu dạng cưỡng bức cơ bản: cưỡng bức người ngoài, cưỡng bức tập thể, cưỡng bức người quen, cưỡng bức khi hẹn hò, cưỡng bức bạn đời, và cưỡng bức do luật pháp quy định. Những kẻ cưỡng bức được chia thành bốn dạng: kẻ cưỡng bức vì tức giận, kẻ cưỡng bức để thể hiện sức mạnh, kẻ cưỡng bức ác độc và kẻ cưỡng bức vì tình dục.

    7. Lạm dụng tình dục trẻ em xảy ra khi một người trưởng thành hay thiếu niên dụ dỗ hay ép buộc trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục. Loạn luân là hành vi tình dục giữa những người có quan hệ họ hàng gần gũi ở bất kỳ lúa tuổi nào. Thủ phạm của tội loạn luân hầu hết là đàn ông, nạn nhân hầu hết luôn là các em gái nhỏ.

    8. Quấy rối tình dục là sự áp đặt yêu cầu tình dục không được mong muốn diến ra trong hoàn cảnh quyền lực không bình đẳng, ngày nay quấy rối tình dục được báo cáo nhiều hơn so với trước đây. Phụ nữ là đối tượng phổ biến nhất của quấy rối tình dục. Quấy rối tình dục không chỉ xảy ra trong phạm vi ở nơi làm việc. Sinh viên, bệnh nhân của các bác sĩ hay nhà tâm lý học, những khách hàng của luật sư, và các giáo dân là những đối tượng dễ bị quấy rối. Không có cá nhân, thể chế, hay giới chức nào miễn dịch với quấy rối tình dục bởi vì các tình huống quyền lực bất bình đẳng có thể tồn tại ở bất cứ đâu.

    9. Các nhà tâm lý học, chuyên gia về tâm thần và các bác sỹ lâm sàng có nhiều phương pháp để giải quyết kẻ cưỡng bức, gạ gẫm trẻ em và tội phạm tình dục khác. Cách thức phổ biết nhất được sử dụng để xử lý kẻ tội phạm tình dục là tống giam dù có hay không điều trị, liệu pháp đông lực tâm lý, liệu pháp hành vi – nhận thức, liệu pháp ác cảm và triệt sản. Dự đoán dài hạn về sự hoàn lương của kẻ tội phạm tình dục là rất khó khăn, bất chấp cách thức sử dụng.

    Mục lục

    Lời nói đầu ……………………………………………………………………………….

    Chương 1. Hoạt động tình dục Và Quan điểm Tâm sinh lý xã hội ………..

    Chương 2. Nghiên cứu về Tình dục là gì?………………………………………..

    Chương 3. Các khuôn mẫu, Vai trò và Nhận dạng về Giới …………………

    Chương 4. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Phụ nữ. ……………………….

    Chương 5. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Nam giới ……………………..

    Chương 6. Hưng phấn tình dục và Phản ứng lại………………………………..

    Chương 7. Thiên hướng Tình dục…………………………………………………..

    Chương 8. Các mối quan hệ Yêu đương…………………………………………

    Chương 9. Hành vi Tình dục………. ……………………………………………….

    Chương 10. Hoạt động tình dục, Sức khỏe và Sự tàn tật……………………

    Chương 11. Hoạt động tình dục Và Vòng đời…………………………………..

    Chương 12. Thụ thai, Mang thai và Sinh nở………………………………………

    Chương 13. Tránh thai và Nạo phá thai……………………………………………

    Chương 14. Các bệnh lây truyền qua đường Tình dục…………………………

    Chương 15. Rối loạn Tình dục và Cách chữa trị…………………………………

    Chương 16. Tình dục đồi trụy.. ………………………………………………………

    Chương 17. Chợ tình ……………………………………………………………………

    Chương 18. Hoạt động tình dục và Luật pháp……………………………………

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    giai-doc-gan-an-binh

    Khách hàng nhận xét

    Khi sử dụng V-Sorento – Hỗ trợ chữa trị viêm đại tràng, các triệu trứng viêm đại tràng của tôi đã được cải thiện rõ rêt.
    Nguyễn Cường, 60 Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội
    Tôi rất yên tâm khi sử dụng sản phẩm của Dược An Bình. Từ khi sử dụng PHARZUBEST – Bổ sung vitamin và khoáng chất, sức khoẻ của tôi được cải thiện nhiều.
    Quang Trần
    Khi dùng Grathozi – Trị nấm âm đạo, bệnh của tôi đã thuyên giảm và khỏi hẳn sau 7 ngày.
    Thu Hương