1. Các dạng rối loạn ngôn ngữ ở trẻ
Rối loạn lời nói ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp và khả năng học tập của trẻ, ảnh hưởng đến việc học chữ viết, việc tiếp thu kiến thức ở trường và trong đời sống xã hội. Các rối loạn này thường do giáo viên phát hiện khi so sánh với sự phát triển ngôn ngữ của các bạn cùng độ tuổi. Nhiều nghiên cứu cho biết, trước hết trẻ em cần hiểu tiếng nói, trước khi có thể sử dụng lời nói một cách hiệu quả. Đối với những trẻ bị khó khăn khi tiếp thu ngôn ngữ cũng sẽ gặp khó khăn về diễn đạt ngôn ngữ đó. Có khoảng 3 – 5% trẻ em có rối loạn về tiếp thu ngôn ngữ, hay bày tỏ ngôn ngữ hoặc cả hai. Trẻ thường gặp khó khăn để hiểu ngôn ngữ khi lên 4 tuổi. Rối loạn ngôn ngữ có tính chất dai dẳng, chủ yếu là rối loạn cấu trúc ngôn ngữ, rối loạn khả năng nghe, khả năng giao tiếp bình thường, nhưng không bị tổn thương về thần kinh chi phối lời nói.
Bình thường từ 2 – 3 tháng, trẻ bắt đầu phát âm họng líu lo; từ 7 – 9 tháng sẽ bập bẹ tập nói “ba ba”, “ma ma”… Từ 12 – 15 tháng, trẻ nói được vài từ đơn giản. Khi 2 tuổi, trẻ có thể nói câu ngắn ít từ đơn giản. Trên 3 tuổi, trẻ nói được câu dài. Trẻ bị rối loạn ngôn ngữ có hai dạng: rối loạn tiếp nhận ngôn ngữ với biểu hiện là chậm hiểu lời nói của người khác; rối loạn về phát âm là trẻ khó nói những từ, những câu thông thường.
Rối loạn phát âm như: chậm nói, nói ngọng, nói lắp, nói sai ngữ pháp, cách nói bất thường… Nếu trẻ chậm nói, nói ngọng, nói lắp mà cha mẹ không khuyến khích trẻ giao tiếp sẽ dễ rơi vào tình trạng thu mình, thụ động, thiếu tự tin, kém hòa nhập. Vì vậy, cùng với việc dạy trẻ nói, sửa lỗi khi trẻ phát âm chưa đúng, cha mẹ và người thân cần phải khuyến khích động viên trẻ hòa nhập với mọi người, vui chơi với bạn bè để trẻ có nhiều cơ hội giao tiếp. Đó là những dịp tốt để trẻ học hỏi và phát triển ngôn ngữ. Nhóm trẻ đi học mẫu giáo bao giờ cũng có khả năng ngôn ngữ tốt hơn nhóm trẻ không đi học.
Các rối loạn ngôn ngữ khác như trẻ thường nói một mình, phát âm vô nghĩa, nói nhại lời, nói lộn xộn… thường do khuyết tật về phát triển hoặc rối loạn tâm lý, cần được phát hiện sớm và cho trẻ đi khám chữa bệnh kịp thời.
2. Cách phát hiện trẻ bị rối loạn ngôn ngữ
Không có biểu hiện rõ rệt nào chứng tỏ trẻ bị rối loạn ngôn ngữ. Tuy nhiên, có một số biểu hiện sau:
– Có vẻ như không lắng nghe khi có ai nói với mình
– Không quan tâm khi có người đọc sách cho mình nghe
– Không hiểu những câu nói phức tạp
– Không làm theo được những mệnh lệnh bằng lời
– Nhắc lại chữ hay câu của người nói
– Khả năng ngôn ngữ nói chung phát triển chậm so với tuổi
Nguyên nhân của rối loạn tiếp thu ngôn ngữ thường không rõ, nhưng được cho là cộng góp của nhiều yếu tố như di truyền, hay mức độ được làm quen với ngôn ngữ, độ phát triển chung…. Rối loạn khả năng tiếp thu ngôn ngữ thường đi chung với những khuyết tật phát triển như tự kỷ. Trong những trường hợp khác, rối loạn khả năng tiếp thu ngôn ngữ là hậu quả của tổn thương não bộ như tai nạn, bướu, hay vì bệnh.
3. Phòng tránh rối loạn ngôn ngữ cho trẻ em
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, muốn tránh hoặc hạn chế tối đa sự rối loạn ngôn ngữ ở trẻ em thì biện pháp quan trọng hàng đầu là các bậc phụ huynh và người thân trong gia đình phải tránh hoặc hạn chế việc cho trẻ từ 0 – 3 tuổi tiếp xúc với tivi, máy tính, máy chơi game, điện thoại… vì đây là giai đoạn trẻ em bắt đầu xây dựng những cơ sở về khả năng ngôn ngữ của mình. Trái lại, chúng ta phải tăng cường cho trẻ em giao tiếp trực tiếp để hướng dẫn cho trẻ làm quen với các đồ vật, hành động, cử chỉ liên quan đến các yêu cầu và ước muốn của chúng. Cần nói rõ ràng, phương pháp này đã được các lớp mẫu giáo, các trung tâm nuôi dạy trẻ áp dụng rất thành công. Trong biện pháp giáo dục trực tiếp này, cô nuôi dạy trẻ hoặc người lớn cùng tham gia vào các trò chơi, các bài học để hướng dẫn uốn nắn cho trẻ nghe, nói chuẩn lời nói, từ ngữ… giúp trẻ phát triển khả năng nghe, nói, sử dụng ngôn ngữ đúng. Nhờ đó trẻ em trở nên mạnh dạn hơn trong giao tiếp và biết sử dụng các từ ngữ cần thiết để biểu đạt nhu cầu hay biểu lộ tình cảm của mình. Cha mẹ và người thân trong gia đình luôn luôn khuyến khích khả năng nói, hát, tham gia các trò chơi, tăng cường cho trẻ tiếp xúc với những hoạt động hấp dẫn. Khi dạy trẻ nghe và nói, chúng ta cũng không nên gò ép trẻ phải có tiến bộ ngay trong việc học các từ mới mà cần kiên trì, dạy trẻ mỗi ngày một số từ và câu nói mới.
Bài viết liên quan
- Những vitamin và chất khoáng quan trọng nhất cho não
- Bệnh viêm phổi không điển hình ở trẻ
- Thiếu Oxy não là gì?
- Điều nên biết về U xơ tử cung
- Chăm sóc gan và một số điều cần lưu ý
- Hỗ trợ đường tiêu hóa bằng thực phẩm
- Viêm khớp ngón tay cái
- Bệnh về gan gây cản trở khả năng đi lại
- Liệu ăn quá nhiều chất xơ có bị co thắt…
- Hỗ trợ đường tiêu hóa bằng men vi sinh