1. Thịt rắn
Thịt rắn chẳng những là loại thức ăn rất ngon, giàu chất dinh dưỡng mà còn là vị thuốc quý, dùng để bồi bổ sức khỏe, đồng thời chữa những bệnh thần kinh, đau nhức, tê liệt, bán thân bất toại, các chứng co giật, cảm trợn mắt méo miệng (kinh phong), giang mai, tràng nhạc, các loại mụn nhọt độc, lở loét, chốc đầu (sài chốc…
Thịt rắn được lấy bằng cách chọn rắn sống, béo, khỏe, ngâm vào nước cho chết rồi chặt bỏ đầu, đuôi, lột da, mổ bỏ phủ tạng (đặc biệt phải tách hết mỡ vì mỡ rắn rất tanh), lọc bỏ xương. Thịt rắn đem nấu, nướng, rán, hấp, luộc, hầm… một mình hoặc cùng các gia vị khác đều trở thành những món đặc sản lạ miệng. Trong Đông y cổ truyền, thịt rắn đem nấu với thịt mèo thành “long hổ hội” – một vị thuốc cực bổ, chữa được nhiều thứ bệnh.
2. Mỡ rắn
Mỡ rắn thường tập hợp ở xung quanh ống tiêu hóa làm thành từng phiến màu trắng ngà. Muốn có mỡ, người ta mổ bụng rắn, dùng kéo và kẹp khéo léo tách khối mỡ ra khỏi ống tiêu hóa, rán cho nóng chảy rồi để nguội, bảo quản nơi thoáng mát, khô ráo.
Với tác dụng dưỡng da đặc biệt, mỡ rắn dùng để chữa bỏng lửa, chốc đầu và làm cho chóng lên da non, bằng cách bôi xoa nhiều lần lên chỗ bỏng, chỗ chốc.
Rắn có thể chữa được nhiều bệnh
3. Máu rắn
Máu rắn rất bổ và chữa được nhiều chứng nhức mỏi, động kinh, đặc biệt công hiệu đối với bệnh đau lưng. Ngay sau khi làm chết rắn, cắt bỏ đầu rồi dốc ngược hoặc cắt chót đuôi rồi dốc xuôi thân rắn cho máu chảy ra, hứng vào một cốc rượu, quấy đều lên trước khi uống.
4. Mật rắn
Mật rắn nằm trên gan (màu xanh), đổ vào đầu ruột non. Muốn tách túi mật ra mà không vỡ, đầu tiên phải dùng kẹp, cặp nhẹ vào đầu ống dẫn mật, nhấc ống lên. Tiếp đó, dùng mũi kéo nhọn gỡ dần từ đầu ống đến từng phần của túi mật ra khỏi những bộ phận xung quanh (khi gỡ cần nhấc mũi kéo lên và theo dõi đầu mũi kéo để không chạm vào thành túi mật). Có thể dùng ngay mật rắn tươi bằng cách nuốt nguyên cả cái hoặc pha với ít rượu mà uống. Cũng có thể dùng chỉ mảnh buộc chặt ống dẫn mật lại, đem mật treo ở chỗ thoáng mát cho khô tự nhiên rồi ngâm với rượu (xà đởm tửu) hoặc tẩm vào vỏ quýt già đã phơi sấy khô (xà đởm trần bì).
Mật rắn mang vị ngọt hơi cay và đặc biệt không đắng như mật nhiều loại động vật khác. Có tác dụng chống viêm rõ rệt, mật rắn tươi dùng ngay hoặc dùng dưới dạng xà đởm tửu để chữa đau sưng, nhức mỏi, thấp khớp, ra mồ hôi trộm. Còn dùng dưới dạng xà đởm trần bì, nó đặc trị ho hen, đờm suyễn, nóng sốt co giật, nhức đầu dai dẳng.
5. Nọc rắn
Nọc rắn tác động rất nhanh, mạnh tới hệ thần kinh và máu nên dùng để chế thuốc giảm đau trong điều trị bệnh phong (hủi, cùi), để chữa ung thư, động kinh, đau cơ, đau thắt ngực, viêm khớp, viêm dây thần kinh…
Muốn lấy nọc, đặt răng độc của rắn tỳ vào một ngăn hộp kính lồng (hộp Petri) hoặc để mỗi răng cắn vào một ống nghiệm (ống thu nọc) rồi dùng tay bóp nhẹ vào hai bên mang tai rắn cho nọc chảy ra. Cũng có thể thay tay bóp bằng dùng hai điện cực áp vào với dòng điện xoay chiều khoảng 4-6 vôn hoặc dùng máy xung điện để kích thích tuyến nọc tiết độc. Nọc tươi thu được làm khô bằng hóa chất hoặc sấy trong chân không, rồi đóng vào ống thủy tinh, hàn kín lại, bảo quản ở nơi thoáng mát, ánh sáng yếu trước khi đem chế thuốc dùng.
6. Xác rắn lột
Mỗi năm, một con rắn lột xác vài lần (thường vào mùa xuân-hè). Xác rắn mang vị ngọt mặn, hơi tanh, tính bình, có tác dụng sát khuẩn, chống viêm, giải độc. Xác rắn khô nghiền thành bột dùng bôi xoa bên ngoài làm thuốc sát trùng, trị chốc mép, tổ đỉa, ghẻ lở, ướt rốn hoặc đốt cháy thành than rồi thổi vào lỗ tai để chữa thối tai. Dưới hình thức sắc uống (ngày dùng khoảng 6-12 g), nó là thuốc đặc trị chứng đau cổ họng và trẻ em động kinh co giật.
7. Rượu rắn
Rượu rắn được chế bằng cách ngâm mỗi bộ tam xà (gồm 3 con rắn: 1 hổ mang, 1 cạp nong, 1 rắn ráo) hoặc ngũ xà (gồm bộ tam xà và 1 rắn hổ trâu, 1 rắn sọc dưa) đã được làm sạch (cắt đầu, mổ bỏ phủ tạng, rửa qua bằng cồn hay nước gừng) vào khoảng 3-5 lít rượu loại 40-60 độ trong bình kín ít nhất 3 tháng. Nếu rắn đã được nướng chín thì chỉ cần ngâm 15-20 ngày. Để rượu tăng tác dụng, có thể ngâm kèm các thảo dược (hà thủ ô, kê huyết đằng, thiên niên kiện, cẩu tích, ngũ gia bì, huyết giác, tiểu hồi, trần bì); hơn nữa, có thể ngâm kèm bộ tam xà một số con hải sâm, kèm bộ ngũ xà 1 con chim bìm bịp.
Uống đều đặn mỗi ngày 1 chén nhỏ sau bữa cơm tối, rượu rắn chữa hiệu quả chứng tê thấp, đau nhức gân – cơ – xương – khớp, đồng thời tăng cường sinh lực, làm thông máu, tráng dương, sáng mắt, nhuận da…
8. Cao rắn
Ngâm một số bộ tam xà đã làm sạch nặng tổng cộng khoảng 10 kg vào 60 lít cồn loại 60 độ trong bình kín ít nhất 3 tháng. Tiếp đó, lọc bỏ xương, bã rồi lấy dung dịch thu được đem cô đặc thành cao. Mỗi ngày dùng 2-4 g ngâm trong rượu hoặc mật ong, cao rắn là thuốc đặc trị của bệnh viêm khớp, thoái hóa khớp, nhức mỏi.
Điều chế bằng cách tương tự như cao rắn, cao trăn được sử dụng phổ biến hơn vì dễ bảo quản và nhiều công dụng hơn.
9. Thuốc tây từ rắn
Trong Tây y, các sản phẩm từ rắn được dùng để bào chế ra nhiều loại thuốc quý. Phần lớn các nước trên thế giới nay đều đã chế được từ nọc rắn huyết thanh chống độc – bao gồm cả huyết thanh đơn trị (chống được 1 loại độc tố) và huyết thanh đa trị (chống được nhiều loại độc tố). Ngoài ra, mỗi nước còn có một vài loại thuốc đặc chủng nổi tiếng chế từ rắn, như: thuốc làm giảm mao mạch Cobratot của Pháp, thuốc chữa thấp khớp và đau dây thần kinh Pratox của Đức, thuốc cầm máu Stiven của Anh, thuốc giảm đau Cobratocin và Vipracin của Nga, thuốc chống viêm và giảm đau Najatox của Việt Nam…
Bài viết liên quan
- Những vitamin và chất khoáng quan trọng nhất cho não
- Bệnh viêm phổi không điển hình ở trẻ
- Thiếu Oxy não là gì?
- Điều nên biết về U xơ tử cung
- Chăm sóc gan và một số điều cần lưu ý
- Hỗ trợ đường tiêu hóa bằng thực phẩm
- Viêm khớp ngón tay cái
- Bệnh về gan gây cản trở khả năng đi lại
- Liệu ăn quá nhiều chất xơ có bị co thắt…
- Hỗ trợ đường tiêu hóa bằng men vi sinh