Các Khuôn Mẫu, Vai Trò và Nhận Dạng Về Giới, chương thứ 3 trong cuốn sách “Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người” của Tác giả George D. Zgourides và Christie S. Zgourides.
Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người
Tác giả : Bác Sĩ George D. Zgourides, Thạc Sĩ Christie S. Zgourides.
Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang
Chương 3 : Các Khuôn Mẫu, Vai Trò và Nhận Dạng Về Giới
Con trai ngỗ ngược và hiếu chiến. Con gái cẩn thận và chu đáo. Con trai độc lập. Con gái phụ thuộc. Con trai có óc phân tích. Con gái dễ bị ảnh hưởng. Con trai tự tin. Con gái có lòng tự trọng thấp. Đối với người Mỹ, quy định giới nào có những đặc tính nào là điều đáng được nghiên cứu. Trong một môi trường xã hội có quyền bình đẳng về giới thì đó là xã hội lý tưởng nhưng nó lại nhân gấp đôi các quy tắc mà những người theo thuyết nam nữ bình quyền đấu tranh bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, việc quấy rối tình dục là vấn đề hàng ngày đối với nhiều phụ nữ và nam giới, dường như thật mỉa mai khi các nhà máy sản xuất tã lót cho trẻ em tiếp tục tung ra thị trường tã lót màu hồng dành cho bé gái và màu xanh dành cho bé trai. Đấy mới chỉ là sự khởi đầu. Ở các trung tâm chăm sóc, trông nom trẻ con, các nhân viên đưa những chiếc xe tải và hình khối cho bé trai, còn đưa búp bê cho các bé gái. Ở trường học, các giáo viên khuyến khích con trai trở thành vận động viên, còn con gái trở thành các cô quý phái. Ở những trường cấp 3, các nhà tư vấn khuyên nam thanh niên tham dự các khóa học bán hàng, còn nữ thanh niên đem các bài tập kinh tế về nhà làm. Nhưng ai dám nói con trai không nên khâu vá còn con gái không nên đấu vật? Tại sao lại có tất cả những điều vớ vẩn về việc thấm nhuần vai trò truyền thống về giới ở trẻ em? Tại sao không cho phép bọn trẻ khám phá và phát triển tài năng theo sở thích và mong muốn của chúng?
Câu trả lời cho những câu hỏi này rất đơn giản đối với nhiều người Mỹ: Nam giới và nữ giới ở mọi lứa tuổi đều được cho là đóng những vai trò dành cho đàn ông và cho phụ nữ mang tính văn hóa được quy định tương ứng. Nhưng ở đây có sự ngụy biện. Tin rằng một người phải sống đúng với vai trò giới đã được quy định từ trước chỉ là một trong những quy tắc vô lý trong cuộc sống mà hầu hết mọi người đều tuân theo nhưng có rất ít người hiểu thực sự về nó. Chỉ bởi vì xã hội xác định hành vi, sự nhận thức, và tình cảm nào là của “nam giới” và của “nữ giới” không có nghĩa là những vai trò đó nhất thiết được tất cả mọi người mong muốn.
Những hậu quả của việc văn hóa quyết định bổn phận về giới và vai trò của giới là có thật – trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, tự nhiên và tâm lý. Trong những trang tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét những điều được biết đến về giới nhằm mục đích có được kiến thức để mang lại lợi ích cho bản thân chúng ta, cho con cái của chúng ta, và cho xã hội.
NHẬN DẠNG VỀ GIỚI
Trước khi đề cập cụ thể hơn cần phải nhắc lại một vài định nghĩa. Đầu tiên là thuật ngữ sexual assignment (chỉ định về giới), hay giới (sau này không nên nhầm lẫn với từ sexual activity (hoạt động tình dục) được dùng rất nhiều, đặc biệt trong quan hệ tình dục) dùng để nói đến cấu tạo sinh học của cá nhân – di truyền, hooc môn, và nhận dạng sinh sản là nam hay nữ. Giới tính chỉ cả giải phẫu sinh lý cá nhân và các khía cạnh văn hóa, xã hội của việc là nam giới hay nữ giới. Ý thức cá nhân của một người về việc mình là nam hay nữ chính là nhận dạng về giới. Biểu hiện bên ngoài của anh ta hay cô ta trong bối cảnh xã hội và theo những kỳ vọng văn hóa là vai trò về giới. Nam hay nữ có thể đóng một vai trò về giới (ví dụ là người nội trợ), chứ không phải vai trò tình dục (sinh đẻ), mà vai trò giới tính này được hạn chế ở mặt giải phẫu ở giới tính này hay giới tính kia. Xu hướng tình dục của một cá nhân dùng để chỉ sự hấp dẫn tình dục tương đối của cô ta hay anh ta đối với người cùng giới (đồng tính luyến ái), hay khác giới (quan hệ với người khác giới), hay cả hai giới (ái nam ái nữ). Tất cả những điều như chỉ định giới, giới tính, nhận dạng giới, vai trò giới, vai trò tình dục và xu hướng tình dục hình thành nên nhận dạng tình dục của một cá nhân.
Như đã nói ở trên, nhận dạng giới dùng để chỉ đặc tính cá nhân, ý thức chủ quan của một người là nam hay nữ – có nghĩa là sự khẳng định bên trong rằng “Tôi là phụ nữ” hay “Tôi là đàn ông”. Nhận dạng về giới bắt nguồn từ đâu? Có phải chúng ta sinh ra đã có? Chúng ta học mới biết? Hay cả hai?
Trong khi còn nhiều điều chưa chắc chắn tồn tại liên quan đến việc nhận dạng giới hình thành như thế nào thì ít nhất cũng có một quan điểm rõ ràng là nhận dạng về giới được hình thành từ sớm, rất có thể từ năm lên 4 tuổi.
Rõ ràng là có những đóng góp của các yếu tố sinh học, tâm lý học và xã hội trong việc hình thành nhận dạng giới. Di truyền, các hooc môn trước và sau khi sinh, sự khác biệt trong bộ não và cơ quan sinh sản, những kiểu mẫu xã hội duy nhất, tất cả chúng dóng vai trò trong việc hình thành nhận dạng giới. Những thực tế này tạo nên trường hợp cho mô hình tâm sinh lý xã hội về giới.
Nhằm mục đích phân loại những ảnh hưởng khác nhau lên giới tính, bây giờ chúng tôi chuyển sự chú ý của mình đến những cơ chế sinh học, mà các cơ chế này được cho là đã mang đến nhận dạng về giới, chúng tôi cũng chú ý đến những điều kiện nảy sinh từ sự bất thường trong những cơ chế này.
Những ảnh hưởng Sinh học đến Nhận dạng giới
Nam giới và phụ nữ khác nhau về mặt sinh học từ trước và sau khi sinh ra. Trên thực tế sự khác biệt về giới tính hay quá trình sinh học khiến cho nam giới trở thành nam giới, nữ giới trở thành nữ giới bắt đầu từ rất sớm trong thời kỳ thai nghén. Sự khác biệt do các quá trình sinh học này tương tác với những ảnh hưởng trong nhận thức xã hội sau khi sinh hình thành nên nhận dạng về giới của một người. Bởi vậy, không phải cho đến khi sau khi sinh thì các chuyên gia mới nói về giới, nhận dạng giới, và vai trò của giới. Sự khác biệt giữa nam giới-phụ nữ về mặt sinh học hay tâm lý được gọi là những khác biệt giới.
Sự khác biệt về Nhiễm sắc thể và Tuyến sinh dục. Di truyền là yếu tố quyết định giới tính của bào thai và nó xuất hiện khi thụ thai. Trên thực tế, đây là vấn đề liên quan đến nhiễm sắc thể - Các cấu trúc sinh học có chứa các gien, hay “các thiết kế” sinh học. Trứng luôn mang một nhiễm sắc thể X. Tinh trùng hoặc là mang nhiễm sắc thể X, hoặc là mang nhiễm sắc thể Y. Cậu bé trai (XY) là kết quả của sự kết hợp giữa trứng và tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y; còn cô bé gái (XX) là kết quả của sự kết hợp giữa trứng và tinh trùng mang nhiễm sắc thể X. Nhiễm sắc thể Y, nhỏ hơn nhiễm sắc thể X, và nó chủ yếu mang yếu tố quy định việc sinh ra nam giới, trong khi đó nhiễm sắc thể X mang những vật chất di truyền hữu ích đối với cuộc sống và sức khỏe, nó có khả năng giúp phụ nữ “sao lưu, dự trữ” trong trường hợp có sự khiếm khuyết ở một nhiễm sắc thể này hay nhiễm sắc thể X khác.
Các cơ quan sinh sản bên trong và bên ngoài của nam giới phát triển khi có sự xuất hiện của nhiễm sắc thể Y. Cho nên, khi không có nhiễm sắc thể Y (nhưng thường có sự xuất hiện của hai nhiễm sắc thể X), thì cơ quan sinh dục của phụ nữ phát triển. Có vẻ như một gien trên nhiễm sắc thể nhỏ bé Y – nhân tố quyết định tinh hoàn (testis determining factor (TDF))- tạo nên sự phát triển của nam giới; TDF bắt đầu tạo nên sự phát triển của những tuyến sinh dục còn chưa được phân hóa (nghĩa là các tuyến sinh dục của nam và nữ) thành tinh hoàn. Nếu không có TDF, các tuyến sinh dục sẽ phát triển thành buồng trứng.
Ngoài sự khác biệt trong thành phần của nhiễm sắc thể ra thì phôi thai của người không có sự phân biệt rõ ràng về đặc điểm giới tính nào trong sáu tuần đầu tiên trong bụng mẹ. Ở giai đoạn ban đầu này, tuyến sinh dục dường như có thể phát triển thành tinh hoàn hoặc buồng trứng. Cho đến tận 7 hoặc 8 tuần tuổi sau khi thụ thai, một số cơ chế mới bắt đầu kích thích sự phát triển các cấu trúc sinh sản của bào thai. Nếu nhiễm sắc thể Y xuất hiện, tủy sống (phần bên trong) của tuyến sinh dục nhanh chóng phát triển thành một tinh hoàn rõ rệt, thường chỉ mất vài ngày. Nếu như không có nhiễm sắc thể này, vỏ(phần bên ngoài) của tuyến sinh dục phát triển thành buồng trứng, thường mất khoảng 12 tuần sau khi thụ thai.
Sự khác biệt về Hooc môn và Cấu trúc Giới tính. Một khi tuyến sinh dục được phát triển thành tinh hoàn hay buồng trứng thì các xác định khác về giới tính sinh học trở thành một chức năng của hệ thống nội tiết, hay tuyến nội tiết (ví dụ tuyến yên, tuyến giáp, và tuyến thượng thận), mà hệ thống này tiết ra những hooc môn vào mạch máu. Tuyến thượng thận tiết ra lượng hooc môn sinh dục ở mức độ thấp, hooc môn có ảnh hưởng trực tiếp và có tác động mạnh đến giới tính là những hooc môn được sản sinh bởi tuyến sinh dục – đặc biệt là hooc môn estrogens và progesterone của buồng trứng, và hooc môn testosterone của tinh hoàn. Những hooc môn estrogens ảnh hưởng đến sự phát triển của các cơ quan sinh sản và các đặc điểm tình dục thứ yếu ở phụ nữ, nó cũng giúp cho việc điều hòa chu kỳ kinh nguyệt. Hooc môn progesterone kích thích sự phát triển của dạ con để chuẩn bị cho việc mang thai. Hooc môn testosterone tác động đến sự phát triển cơ quan sinh sản và các đặc điểm tình dục thứ yếu ở nam giới, nó cũng có tác động đến năng lực tình dục.
Một nghiên cứu lớn đã chứng thực sự đóng góp của các hooc môn tuyến sinh dục đối với sự khác biệt ở các cơ quan sinh dục bên trong và bên ngoài. Như đã nói ở trên, trước 6 tuần tuổi, bào thai dường như có thể là con trai, có thể là con gái. Khoảng đến tuần thứ 7 và 8, cơ quan sinh dục chưa được phân hóa mới phát triển thành buồng trứng hoặc tinh hoàn. Nếu tuyến sinh dục của bào thai phát triển thành tinh hoàn, chúng sẽ nhanh chóng tiết ra hooc môn testosterone, và hooc môn này kích thích sự phát triển tiếp tục của các cấu trúc sinh dục bên trong và bên ngoài của nam giới. Nếu bào thai là nam giới không tiết đủ hooc môn testosterone, các cơ quan sinh sản nữ phát triển cho dù nhiễm sắc thể ở đây là Y. Từ đó có thể thấy rõ ràng rằng sự phát triển của các cấu trúc nữ trong bào thai không phụ thuộc vào một hooc môn nữ cụ thể nào mà nó phụ thuộc vào sự xuất hiện hay không xuất hiện của hooc môn testosterone.
Có hai nhóm mô bào thai khác nhau mà hai nhóm này có mặt ở cả nam lẫn nữ, chúng giúp cho các cấu trúc giới bên trong phát triển. Ở phụ nữ, Mullerian ducts (các ống Muller) trở thành ống dẫn trứng, dạ con, cổ tử cung, và một phần của âm đạo. Ở nam giới Wolffian ducts (các ống Wolffia) trở thành mào tinh hoàn, ống dẫn tinh, và các túi tinh. Sự có mặt hoặc không có mặt của hooc môn testosterone và hooc môn ức chế Muller quyết định ống nào phát triển thành các cấu trúc sinh dục bên trong, và ống nào làm giảm bớt giới tính của bào thai. Ở các trường hợp bình thường, cấu trúc giới tính được khu biệt hoàn toàn ở tuần thứ 12 của thai nhi.
Vì các cấu trúc sinh dục nam và nữ khác nhau xuất hiện bên ngoài của cùng các mô phôi thai nên mỗi cấu trúc sinh dục nữ có một cấu trúc sinh dục nam tương đồng (tương ứng), và ngược lại. Ví dụ, buồng trứng của nữ giới tương đồng với tinh hoàn của nam giới.
Sự khác biệt ở Bộ não. Sự khác biệt về giới tính trước khi sinh cũng xuất hiện trong bộ não. Điều này thường liên quan đến hai vùng chính: (1) các bán cầu não (phía bên trái và bên phải của não), và (2)cấu tạo dưới đồi (vùng não điều khiển các phản ứng động cơ và cảm xúc). Mặc dù hầu hết các nghiên cứu về khác biệt giới tính ở bộ não thường sử dụng những nghiên cứu từ động vật, nhưng có thể có cùng những khác biệt tồn tại bên trong bộ não của tất cả các động vật có vú, bao gồm cả con người.
Sự khác biệt về giới tồn tại trong các bán cầu não của nam giới và nữ giới. Trong khi toàn bộ hai bán cầu não bỏ quên dấu vết mà chúng ghi nhận về nhau thì mỗi bán cầu não có một chức năng chuyên biệt. Ở con người, bán cầu não phải chuyên về các chức năng không gian (khả năng nhận biết mối quan hệ giữa các vật có kích cỡ và hình dáng khác nhau); bán cầu não trái chuyên về các chức năng nói(khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ). Mặc dù những khác biệt này là khá nhỏ, nhưng nam giới nói chung thường thể hiện khả năng nhận biết không gian tốt hơn phụ nữ, còn phụ nữ nói chung thường thể hiện khả năng ngôn ngữ tốt hơn. Giải thích đưa ra cho những khác biệt về giới trong chức năng của các bán cầu não đó là do sự xuất hiện của hooc môn testosterone dẫn đến việc phát triển mạnh hơn của bán cầu não phải trong bào thai nam, và sự thiếu hooc môn testosterone dẫn đến việc nó không ảnh hưởng đến sự phát triển bán cầu não phải ở bào thai nữ.
Những khác biệt ở cấu tạo dưới đồi dường như cũng có liên quan đến lượng hooc môn testosterone ở trong máu, nó cũng khá giống với sự có mặt và không có mặt của hooc môn testosterone gây ảnh hưởng đến các nhân tố khác của sự khu biệt trước khi sinh. Trong nhiều chức năng quan trọng của mình, vùng dưới đồi còn đóng vai trò trong việc kiểm soát sự sinh sản và tiết ra hooc môn sinh dục bằng cách điều hòa tuyến yến, tuyến yên kích thích các tuyến nội tiết khác sản sinh ra các hooc môn tương ứng.
Nói chung, tác động của sự khu biệt giới tính trước khi sinh lên vùng dưới đồi là không rõ ràng cho đến tuổi dậy thì. Vào thời gian đó, vùng dưới đồi phân biệt nam giới chỉ đạo tuyến yên thúc đẩy việc sản sinh liên tục các hooc môn giới tính. Vùng dưới đồi phân biệt nữ giới chỉ huy tuyến tuyên thúc đẩy việc sản xuất định kỳ các hooc môn giới tính. Do đó, phụ nữ – chứ không phải nam giới – thể hiện khả năng sinh sản của mình dưới dạng chu kỳ kinh nguyệt.
Những kiểu mẫu Dị thường của sự Khác biệt Giới tính
Hầu hết các khác biệt giới tính hoạt động theo như sắp xếp. Tuy nhiên, đôi khi, một trong những cơ chế đó lại làm việc sai chức năng. Nếu các cơ quan sinh dục không tạo ra được sự khu biệt, đứa trẻ có thể được sinh ra với sự kết hợp của các cơ quan sinh dục của cả hai giới, chẳng hạn như lỗ âm đạo nằm dưới dương vật – đây được coi là lưỡng tính. Ở những cơ thể lưỡng tính thật¸ điều này rất hiếm khi xuất hiện ở người, có cả các mô thuộc tinh hoàn lẫn các mô thuộc buồng trứng. Có thể có hai tinh hoàn và hai buồng trứng, hoặc một tinh hoàn, một buồng trứng ở tuyến sinh dục. Ở những người lưỡng tính giả, xuất hiện khá nhiều (khoảng 1 trong 1.000 đứa trẻ được sinh ra), các cơ quan sinh dục cá nhân cũng nhập nhằng, nhưng mô sinh học thì thống nhất với cấu trúc của nhiễm sắc thể.
Ba hội chứng mắc phải do những vấn đề liên quan đến sự khu biệt giới tính ở cấp độ nhiễm sắc thể là Hội chứng Turner, Hội chứng Klinefelter, và Hội chứng XYY.
Hội chứng Turner. Hội chứng Turner được dùng để chỉ tình trạng bào thai chỉ có một nhiễm sắc thể. Trẻ em bị mắc hội chứng Turner sẽ phát triển vùng sinh dục bên ngoài của nữ giới, và thường cho mình là phụ nữ. Tuy nhiên, các cơ cấu sinh dục bên trong của chúng lại không bao giờ phát triển. Vào thời kỳ dậy thì, ngực của chúng không phát triển và không thấy có kinh nguyệt. Những phụ nữ trưởng thành mắc hội chứng này không có khả năng sinh đẻ. Có khoảng 1 trong 2.500 trẻ sơ sinh nữ sinh ra có nhiễm sắc thể OX.
Hội chứng Klinefelter. Trẻ em sinh ra mắc hội chứng Klinefelter là do có cấu trúc nhiễm sắc thể XXY, và do đó về giải phẫu sinh lý đứa trẻ là con trai do có sự xuất hiện của nhiễm sắc thể Y. Mặc dù, những đứa trẻ này bề ngoài trông bình thường giống như những đứa trẻ khác, nhưng vào thời kỳ thanh thiếu niên, tinh hoàn của chúng không phát triển, bộ phận sinh dục nhỏ hơn bình thường, ngực phát triển, có cấu trúc cơ bắp của phụ nữ, chiều cao bất bình thường, có giọng nói cao; và họ cũng không có khả năng sinh sản, đôi khi trí tuệ cũng chậm phát triển. Có khoảng 1 trong 400 trẻ sơ sinh nam có nhiễm sắc thể XXY này.
Hội chứng XYY. Hội chứng XYY dùng để chỉ tình trạng bào thai có cấu trúc nhiễm sắc thể XYY. Nam giới có thêm một nhiễm sắc thể Y thường có trí thông minh thấp hơn mức bình thường và có chiều cao cao hơn bình thường. Nghiên cứu liên quan đến những các nhân có xu hướng hiếu chiến hay bạo lực quá mức do có nhiễm sắc thể XYY vẫn chưa rõ ràng. Có khoảng 1 trong 1000 trẻ sơ sinh nam có nhiễm sắc thể XYY.
Những ảnh hưởng về Tâm lý và Xã hội lên Nhận dạng về giới
Hầu hết nhận dạng về giới của các cá nhân thường được đưa ra dựa trên cấu tạo sinh lý và ngoại hình, nhưng điều này không có nghĩa là các quá trình tâm lý và xã hội vắng mặt hay không có ảnh hưởng đến nhận dạng giới. Các kiến thức xã hội, bao gồm cả việc trẻ con được nuôi lớn và phản ứng như thế nào với các quy tắc và vai trò mà xã hội và văn hóa tạo ra đối với giới của chúng, đóng một phần nhất định trong việc hình thành cuối cùng nhận dạng giới. Nếu một đứa trẻ được bảo rằng, nó là con trai và được nuôi lớn như một đứa con trai, đứa trẻ sẽ tin rằng, mình là con trai; nếu nó được nói rằng nó là con gái, và được nuôi lớn như một đứa con gái, thì đứa trẻ sẽ tin rằng nó là con gái.
Đa phần các bậc cha mẹ đều nuôi dạy con cái của mình theo diện mạo các cơ quan sinh dục của chúng. Điều này bắt đầu từ trong phòng đẻ, khi bà mẹ được cho biết “Nó là một bé gái” hay “Nó là một bé trai!”. Tiếp theo là đến những bộ quần áo và đồ đạc trong phòng màu hồng hoặc màu xanh, rồi vô số những lời khen từ gia đình, bạn bè, và những người lạ, chẳng hạn như “Đúng là một cô bé xinh xắn” hay “Đúng là một cậu bé khỏe mạnh!”. Các bậc cha mẹ thậm chí đối xử với các cậu bé một cách mạnh mẽ hơn so với các cô bé. Và không cần phải mất nhiều thời gian, những điều liên quan đến cách cư xử thiên kiến về giới này đã bắt đầu ảnh hưởng đến nhận dạng giới. Trong một thời gian rất ngắn – theo một số chuyên gia là ít hơn hai năm – trẻ em bắt đầu xây dựng cho mình những hiểu biết rõ ràng về việc chúng là con trai hay con gái, thường tiếp sau mong muốn thể hiện những cách cư xử và hành vi phù hợp với giới của mình. Sinh vật học tạo nền tảng, nhưng cuối cùng chính những tương tác của trẻ với môi trường xã hội xây dựng nên nhận dạng về giới.
Sự hình thành nhận dạng giới, giống với bất kỳ điều gì khác, không phải lúc nào cũng đơn giản một cách hoàn hảo và không có lỗi gì. Một số cá nhân đã trải nghiệm khó khăn lớn trong việc điều hòa và kết hợp các yếu tố sinh lý, tâm lý và xã hội với giới của mình. Họ trải nghiệm sự loạn giới – những đau đớn và rối loạn trong tình cảm liên quan đến nhận dạng giới. Chẳng hạn như một số cá nhân tin rằng họ bị sinh nhầm giới; giới tính “thật” của họ mâu thuẫn với diện mạo về giới bên ngoài của họ.
Không còn nghi ngờ gì nữa, việc chuyển giới tính (hay rối loạn nhận dạng giới) – quan niệm chủ quan rằng một cá nhân sở hữu nhầm cơ thể của giới khác – là dạng thức cực đoan nhất của nhận dạng nhầm về giới. Hiện tượng này khác với đồng tính luyến ái, ái nam ái nữ, hay luyến ái giả trang. Người đồng tính luyến ái là người bị thu hút, hấp dẫn vởi những người cùng giới với mình, trong khi đó người ái nam ái nữ bị hấp dẫn bởi cả hai giới. Người luyến ái giả trang cảm nhận sự hài lòng về tình dục từ việc mặc quần áo của giới tính khác.
Một người chuyển giới tính là người có ngoại hình sinh học là nam giới hoặc phụ nữ, nhưng như đã nói ở trên, họ tin rằng mình lẽ ra phải sinh ra là thành viên của giới khác. Không giống những người có xu hướng tình dục hướng tới giới khác và những người đồng tính luyến ái, những người thường có được khoái cảm từ vùng sinh dục của họ, những người chuyển giới tính đặc biệt ghét các cơ quan sinh dục của họ, nhiều người từ chối không muốn đụng hay nhìn chúng. Họ cho rằng việc họ có “nhầm” bộ phận sinh dục là do lỗi của tạo hóa. Do đó, những người chuyển giới tính thường muốn giải thoát bản thân khỏi các đặc điểm giới tính được chỉ định của mình và có được giới tính khác bằng phương pháp phẫu thuật chuyển đổi giới tính.
Những người chuyển đổi giới tính phải chịu những xung đột tâm lý rất dữ dội. Trong khi cơ thể họ tuyên bố họ thuộc giới tính này thì tinh thần họ lại đưa ra ý kiến đối lập. Những khao khát tình dục được đặt sang một bên. Những đau đớn về tình cảm được âm thầm chịu đựng. Kết quả của điều này là sự xáo trộn, sợ hãi, trầm cảm và tự ghê tởm bản thân.
Khi những xung đột này đủ mạnh, người chuyển đổi giới tính có thể phải trải qua liệu pháp điều trị, dẫn đến việc “phẫu thuật thay đổi giới tính”. Để có đủ điều kiện, người chuyển đổi giới tính đầu tiên phải trải qua một số bước khác nhau nhằm đánh giá xem liệu anh ta hay cô ta có phải là ứng cử viên thích hợp cho phẫu thuật chuyển đổi giới tính hay không. Bước đầu tiên là trải qua tư vấn và đánh giá tâm thần, tâm lý để đảm bảo rằng cá nhân muốn trải qua phẫu thuật thay đổi giới tính thực sự là những người chuyển đổi giới tính. Nếu đánh giá đó khẳng định được cá nhân là người chuyển đổi giới tình thì họ sẽ trải qua liệu pháp hooc môn. Người chuyển đổi giới tình từ nam sang nữ (đây là dạng phổ biến nhất) nhận hooc môn estrogen chuyển thành nữ, bao gồm việc làm cho ngực to ra, tăng lượng mỡ ở hông, làm giảm sự bài tiết của tuyến tiền liệt, và làm giảm mức độ thường xuyên cương cứng. Người chuyển đổi giới tình từ nữ sang nam nhận hooc môn testosterone chuyển thành nam giới, gồm tăng lông mặt, giọng nói trầm xuống, tăng cơ bắp và mở rộng kích cỡ âm vật. Bước tiếp theo là thay đổi trang phục cá nhân và sống như một thành viên của giới tính mới trong vòng từ một đến hai năm. Đây là bước làm rất quan trọng để giúp cá nhân trải nghiệm và điều chỉnh thực tế của việc là người thuộc giới khác.
Phẫu thuật là bước cuối cùng trong quá trình dài của việc thay đổi chỉ định giới. Thay đổi từ nam sang nữ khá đơn giản. Đầu tiên bác sỹ bỏ dương vật và tinh hoàn của người chuyển đổi giới tính (giữ nguyên dây thần kinh dẫn đến dương vật), sau đó tạo một âm đạo giả ở chỗ da của dương vật nhằm duy trì các đầu cuối của dây thần kinh cảm giác và khả năng phản ứng với các kích thích tình dục.
Phẫu thuật chuyển đổi giới tính từ nữ sang nam khó hơn và không phải lúc nào cũng thành công như phẫu thuật chuyển từ nam sang nữ. Bác sỹ phải phẫu thuật cắt bỏ ngực, buồng trứng, và dạ con; đóng môi âm hộ của bệnh nhân để tạo thành bìu dái và tạo dương vật từ da bụng và mỡ. Vì dương vật mới không có khả năng cương cứng nên nhiều bệnh nhân thích sử dụng lắp dương vật giả để cương cứng và quan hệ tình dục. Những túi silicon có thể được sử dụng để tạo tinh hoàn giả.
Các nhà khoa học đến nay chưa khám phá ra nguyên nhân rõ ràng của hiện tượng chuyển đổi giới tính. Một số học thuyết phổ biến cho rằng đó là do sự khác biệt não bộ không thích hợp do sự phô bày tiền sinh đối với hooc môn của giới khác, sự mất cân bằng hooc môn sau khi sinh, sớm nhận dạng với cha mẹ thuộc giới khác, và những trải nghiệm kiến thức hỗn hợp từ sớm. Do không có những bằng chứng trực tiếp ủng hộ bất kỳ sự lý giải nào, nên hiện tượng chuyển đổi giới tính rất có thể do nhiều nguyên nhân.
VAI TRÒ VỀ GIỚI
Có một vài khía cạnh về hoạt động tình dục của con người khuấy động cảm xúc của con người ngàng bằng với vai trò về giới. Đàn bà là gì? Đàn ông là gì? Liệu có nên áp dụng những tiêu chuẩn chủ yếu liên quan đến phụ nữ và nam giới cho tất cả các thành viên trong xã hội hay không?
Vai trò về giới gần như có ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh của đời sống, nó hình thành nên mối liên hệ giữa nhận dạng giới với thái độ và sự thể hiện giới. Vai trò về giới mang cả yếu tố cá nhân lẫn văn hóa, nó quyết định xem phụ nữ và đàn ông ăn mặc, nói năng, ảnh hưởng lẫn nhau như thế nào trong phạm vi giới hạn của xã hội.
Kiến thức đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành vai trò về giới, xin bắt đầu từ ngoại hình. Tất cả mọi người đều có những giản đồ giới, mà giản đồ này bám chặt vào khuôn khổ nhận thức về cái hình thành nên tính chất đàn ông và tính chất đàn bà. Con người đưa ra những đánh giá nhanh về những phẩm chất này ở người khác, mà những đánh giá này thường đưa ra dựa trên những thứ ít quan trọng như quần áo, kiểu tóc, và giọng nói. Thêm vào đó là những cái mà con người nhận thức là những phẩm chất mà họ mong được nhận thức, những phẩm chất này được đưa ra dựa trên những giả định về nam giới và phụ nữ. Vai trò về giới được dạy và được củng cố trong suốt cuộc đời bởi vô số những tác nhân xã hội – cha mẹ, thầy cô, bạn bè, phim ảnh, truyền hình, âm nhạc, sách báo, tôn giáo – và không còn nghi ngờ gì nữa, cha mẹ là những người có ảnh hưởng lớn nhất, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ trong nhận thức của chúng về vai trò về giới.
Trẻ con nhận biết vai trò về giới như thế nào? Học tập chính là phương tiện chủ yếu. Nghiên cứu chỉ ra rằng cha mẹ (và những người lớn khác) miêu tả và cư xử với bé trai và bé gái hoàn toàn khác nhau. Ít nhất, họ cũng cư xử có phần khác biệt bởi vì chính bản thân họ cũng là những người tiếp nhận vai trò về giới và do đó họ nhận thức trẻ con là khác nhau. Về mặt truyền thống, người cha chỉ cho con trai cách xây dựng và sửa chữa đồ vật, trong khi các bà mẹ dạy con gái trông nhà, thổi cơm, khâu vá. Điều này đi suốt thời thơ bé và niên thiếu của trẻ nhỏ. Theo cách này trẻ con nhận được sự tán đồng của cha mẹ bằng cách tuân theo những kỳ vọng về giới và chấp nhận những vai trò theo như tập quán và văn hóa – tất cả những điều này tiếp tục được củng cố bởi các tác nhân xã hội, chẳng hạn như truyền hình. Việc học vai trò về giới thường xuất hiện trong bối cảnh văn hóa, xã hội, các giá trị từ cha mẹ và xã hội được truyền lại cho trẻ nhỏ ở những thế hệ tiếp theo.
Suy nghĩ Cá nhân
Liệu có nên khuyến khách các bé trai chơi búp bê, đồ hàng…?Liệu có nên khuyến khích bé gái chơi súng đồ chơi, chơi đá bóng…? Tại sao có hay tại sao không? Bạn sẽ khuyến khích con mình tham gia vào các trò chơi chỉ dành riêng cho một giới, dành cho cả hai giới, hay cả hai? Giải thích.
Vai trò về giới chấp nhận từ thời thơ bé thường được mang theo cho đến khi đã lớn. Ở nhà, con người có những giả định nhất định liên quan đến việc đưa ra quyết định, đến trách nhiệm công việc, tài chính và cách nuôi dạy con cái. Ở nơi làm việc, con người có những giả định liên quan đến việc phân công lao động, quyền hạn và cơ cấu tổ chức. Điều này không nhằm để nói rằng vai trò về giới là tốt hay xấu. Đơn thuần nó chỉ tồn tại, nó là thực tế trong cuộc sống của hầu hết mọi người. Vấn đề đặt ra đối với giá trị của nó thực sự phụ thuộc vào các cá nhân và các nhóm liên quan. Đối với một số người, những vai trò về giới truyền thống mang lại sự an toàn – một lời nhắc nhở bất biến về việc mọi thứ đã, đang và sẽ là như thế. Đối với những người khác, nó là nguồn gốc gây ra những hạn chế và thất vong – một lời nhắc nhở bất biến về việc mọi thứ đã, đang và sẽ không cần là như thế.
Suy nghĩ cá nhân
Trong một tuần, ngày nào bạn cũng hãy dành ra một tiếng xem truyền hình vào giờ cao điểm. Bạn thấy có bao nhiêu chương trình truyền hình miêu tả vai trò giới mang tính truyền thống của người Mỹ? Bao nhiêu chương trình miêu tả vai trò không truyền thống? Bạn thấy như thế nào về những phát hiện của mình.
CÁC KIỂU MẪU VỀ GIỚI
Một thảo luận về vài trò giới sẽ là không hoàn chỉnh nếu như không đề cập đến các kiểu mẫu về giới. Kiểu mẫu về giới là sự khái quát hóa giản đơn về vai trò, sự khác biệt và thuộc tính về giới của những nhóm hay các cá nhân cụ thể. Các kiểu mẫu có thể là tích cực (Ví dụ: “Nhóm người này thông minh”) hoặc tiêu cực (“Nhóm người đó vụng về và lười biếng”). Họ hiếm khi đưa ra cơ sở tốt để hình thành nên những quan điểm về người khác.
Đâu là điểm khác biệt giữa vai trò về giới và kiểu mẫu về giới? Thực tế, giữa vai trò và kiểu mẫu có mối quan hệ với nhau. Mọi người sống theo vai trò về giới mà họ học được từ khi còn nhỏ – những giả định về cái gì được mong đợi và được cho là bình thường trên phương diện nam giới và phụ nữ. Tuy nhiên, khi mọi người tự động áp dụng những giả thuyết về giới của mình lên người khác, bất chấp những bằng chứng cho thấy điều ngược lại, thì nghĩa là họ đang tham gia vào việc đưa ra các kiểu mẫu về giới.
Nhiều người nhận thấy sự nguy hiểm trong việc đưa ra kiểu mẫu về giới, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục đưa ra những giả định về giới cho người khác. Vai trò kiểu mẫu của phụ nữ là lấy chồng và sinh con – gia đình và tổ ấm. Phụ nữ phải đặt những nhu cầu của gia đình lên trước nhu cầu của bản thân; phải biết thông cảm, chăm sóc, yêu thương và có lòng trắc ẩn; và cũng phải tìm đủ thời gian để làm cho mình trở nên đẹp đẽ, gợi tình. Vai trò kiểu mẫu của nam giới là người cung cấp tài chính. Một người đàn ông phải quyết đoán, độc lập, có tính tranh đua, tập trung cho công việc, kiểm soát được tình cảm và luôn luôn là người chủ động trong quan hệ tình dục. Anh ta phải không bao giờ được thể hiện sự nữ tính trong bất kỳ trường hợp nào. Thêm vào đó, yêu cầu đối với anh ta là phải thành công, hung hăng, mạnh mẽ và luôn luôn tự chủ.
Ghi chép Cá nhân (Shawn, 43 tuổi)
Là một người đàn ông, tôi luôn luôn ở trong tư thế phòng thủ khi là người bán hoa. Bạn sẽ không thể tin nổi những điều mà tôi phải chịu được trong nhiều năm qua. Tôi sinh ra trong một gia đình Châu Âu rất truyền thống, ở đó đàn ông làm những việc của đàn ông – như câu cá và uống rượu – và đàn bà làm những việc của đàn bà – như nấu nướng và giặt giũ quần áo suốt ngày. Điều này đôi khi thật kinh khủng. Dù sao đi nữa, tôi cũng đã bắt đầu công việc thiết kế hoa trong suốt những năm đại học mà không nghe thấy yêu cầu chấm dứt việc đó từ phía gia đình. Và mặc dù tôi chưa lấy vợ nhưng tôi không phải là người đồng tính. Tôi chắc bạn có thể tượng tưởng được cuộc chuyện trò xung quanh cái ti vi vào những ngày nghỉ khi tất cả họ hàng và tôi đang ngồi xem bóng đá. (Tư liệu của Bác sỹ Zgouride)
Liệu các kiểu mẫu về giới có bao giờ liên quan đến những hậu quả tiêu cực? Có. Chúng có thể dập tắt khả năng sáng tạo và sự thể hiện của cá nhân. Chúng có thể ngăn cản sự phát triển cá nhân. Chúng có thể cản trở con người trong việc “tìm ra chính mình”. Nói tóm lại, các kiểu mẫu về giới có thể gây ảnh hưởng tiêu cực lên hầu hết các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống.
Đây là ví dụ cho điều này: Bạn hãy xem các kiểu mẫu và vai trò về giới cứng nhắc can thiệp như thế nào vào hoạt động tình dục. Trong nhiều trường hợp, con người xác định đặc tính đàn bà và đàn ông của mình thông qua các hành vi tình dục của họ. Đàn ông được dạy là phải hung hăng và bề trên, còn phụ nữ thì thụ động và mềm mỏng. Không có gì phải nghi ngờ khi dương vật trở thành biểu tượng của sức mạnh và sự thống trị, còn âm vật trở thành biểu tượng của sự phụ thuộc và dâng hiến. Tuân theo những hạn chế đó, kiểu mẫu tình dục cũ dành rất ít đất cho sự sáng tạo hay tự thể hiện ở trong phòng ngủ hay bất kỳ nơi nào khác.
Các kiểu mẫu và vai trò cứng nhắc về giới hiện ra rõ hơn trong việc hình thành nên các rối loạn tình dục. Những người đàn ông phải chiến đầu với những lo lắng liên quan đến việc thể hiện khả năng tình dục thường mắc các chứng rối loạn liên quan đến ham muốn, cương cứng và cực khoái, điều này giống như khi phụ nữ phải đấu tranh để hoàn thành nhiệm vụ về giới với vai trò thụ động và phục tùng. Tại sao lại như vậy? Có thể bởi vì đàn ông và phụ nữ, những người mang những giả định về giới cứng nhắc bị trói buộc trong những kỳ vọng vô lý về cách quan hệ tình dục và những người yêu nhau cho rằng họ không thành công trong việc “để nó tự nhiên” và cho bản thân họ được hưởng thụ thú vui nhục dục.
Các kiểu mẫu về giới bắt nguồn từ đâu? Từ giản đồ về giới, sức nặng của những bằng chứng khoa học chỉ ra rằng con người, đặc biệt là trẻ nhỏ đã học được các kiểu mẫu về giới. Nhưng học từ ai? Từ các tác nhân xã hội – cha mẹ, bạn bè, thầy cô, các phương tiện truyền thông, những người đứng đầu tôn giáo – truyền kiểu mẫu về giới từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Làm thế nào để xã hội có thể giải phóng các cá nhân ra khỏi kiểu mẫu giới để họ có thể có cuộc sống trọn vẹn hơn? Có một phương pháp, đó là thách thức các vai trò, kiểu mẫu, hay kỳ vọng về giới. Đây là một chủ đề xã hội tồn tại ở Mỹ trong thời gian dài, lên đến tột đỉnh trong phong trào đòi bình quyền cho phụ nữ, phong trào giải phóng phụ nữ, phong trào của đàn ông và trong khái niệm lưỡng tính.
Suy nghĩ Cá nhân
Những quan niệm truyền thống của bạn về “nam giới” và “nữ giới” là gì? Những quan niệm đó được bắt nguồn từ đâu? Những kiểu mẫu về giới mang tính truyền thống ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến cuộc sống của bạn như thế nào? Ở chừng mực nào thì bạn tin rằng xã hội đang nghi ngờ những vai trò và kiểu mẫu về giới mang tính truyền thống? Bạn có bằng chứng gì để ủng hộ quan điểm của mình? Bạn cảm thấy thế nào đối với việc thay đổi vai trò về giới của phun nữ và nam giới ở Mỹ?
Lưỡng tính
Nhiều người Mỹ coi nam và nữ là hai giới đối lập nhau; các thuộc tính nam giới là phạm vi duy nhất dành cho nam, còn các thuộc tính nữ giới là phạm vi duy nhất dành cho nữ. Nam giới được miêu tả là những người khỏe mạnh, năng động, mạnh mẽ, chỉ huy và bạo lực; phụ nữ là những người yếu đuối, phục tùng, xinh đẹp, mỏng manh, và dịu dàng. Những đặc điểm, kiểu mẫu và vai trò này ảnh hưởng trực tiếp tới công việc, cách xử sự, giáo dục và sự sùng bái – nó thường gây hại đến các cá nhân và xã hội trên diện rộng.
Một cách tiếp cận để nghi ngờ những vai trò và kiểu mẫu truyền thống về giới là khái niệm lưỡng tính (androgyny) (bắt nguồn từ ngôn ngữ Hi Lạp andros, có nghĩa là “đàn ông” và gyne, có nghĩa là “đàn bà”) – sự pha trộn giữa các thuộc tính của nam giới và phụ nữ trong một cá nhân. Một người lưỡng tính, hay ái nam ái nữ không cần phải phù hợp hoàn toàn với vai trò của nam giới hay nữ giới; cô ta hay anh ta có thể thoải mái thể hiện phần nam giới hay nữ giới của bản thân. Sẽ không có gì là bất bình thường hay không thích hợp khi thất một người bố nhận trách nhiệm nuôi dưỡng con cái của người mẹ, trong khi người mẹ lưỡng tính lại theo đuổi sự nghiệp.
Mặc dù lưỡng tính có vẻ như là một sự chuyển hướng cực đoan khỏi những quy tắc truyền thống và có nguy cơ gây ra sự lộn xộn trong xã hội, nhưng nhà tâm lý học Sandra Bem và những nhà tâm lý học khác đã giải thích rằng những người đàn ông và những phụ nữ lưỡng tính là những người ít tuân thủ, linh hoạt hơn, quan tâm hơn, có đời sống tình cảm lành mạnh hơn những người theo khuôn mẫu của một giới. Trên thực tế, những người lưỡng tính có xu hướng thể hiện động cơ thành tích cao, có lòng tự trọng và các kỹ năng xã hội. Tuy nhiên không phải tất cả các nghiên cứu đều tuyên bố rằng những người lưỡng tính là những người không có vấn đề gì trong lối sống. Điều đó có nghĩa là xã hội nên chấp nhận những người lưỡng tính như họ vốn có – một phương pháp để nghi ngờ các vai trò về giới mang tính khuôn mẫu. Lưỡng tính không phải là thuốc chữa bách bệnh cho tất cả mọi người trong mọi trường hợp.
Trong phân tích cuối cùng, vai trò về giới thích hợp nhất đối với một cá nhân là vai trò mà cô ta hay anh ta cảm thấy thoải mái và thỏa mãn nhất. Đó là vai trò cho phép cá nhân thể hiện đầy đủ tiềm năng và hoàn thành ước nguyện của mình ở mức độ cao nhất. Đó là vai trò cho phép một người được trở thành người mà cô ta hay anh ta chọn lựa. Tự do là chính mình là điều mà sự giải phóng giới thực sự hướng đến.
Suy nghĩ Cá nhân
Thử tưởng tượng vào một lúc nào đó chính phủ của chúng ta quyết định thực hiện một “Cuộc thử nghiệm Xã hội trên Toàn nước Mỹ” và phê chuẩn một đạo luật yêu cầu tất cả các công dân đều phải trở thành người lưỡng tính. Bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra với xã hội của chúng ta? Đâu là những thay đổi tích cực và đâu là những thay đổi tiêu cực mà bạn có thể quan sát được?
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH
1.Chỉ định giới dùng để nói đến cấu tạo sinh học của một cá nhân – gien, hooc môn, nhận dạng sinh sản là nam hay nữ. Giới được dùng để chỉ các khía cạnh văn hóam xã hội và giải phẫu sinh lý của một cá nhân là nữ hay nam. Ý thức cá nhân của một người về việc mình là nam hay nữ chính là nhận dạng giới. Những hiểu biết bên ngoài của nhận dạng giới trong bối cảnh xã hội và theo những kỳ vọng văn hóa là vai trò về giới. Một vai trò tình dục là vai trò về giới giới hạn chế về mặ giải phẫu của giới này đối với giới kia. Xu hướng tình dục của một cá nhân dùng để chỉ sự hấp dẫn tình dục tương đối của anh ta hay cô ta đối với những người cùng giới và/hay khác giới. Chỉ định giới, giới, nhận dạng giới, vai trò về giới, vai trò tình dục và xu hướng tình dục hình thành nên nhận dạng tình dục của một người.
2.Sự khác biệt về giới dùng để chỉ các quá trình sinh học mà từ dó nam giới trở thành nam giới, còn nữ giới trở thành nữ giới. Các yếu tố như sinh học, tâm lý, xã hội đóng góp vào việc hình thành nhận dạng giới. Tất cả các yếu tố như di truyền, các hooc môn trước và sau khi sinh, những khác biệt trong bộ não và các cơ quan sinh sản, các kiểu mẫu xã hội duy nhất đóng vai trò trong việc hình thành nên nhận dạng về giới của một người.
3. Các kiểu mẫu bất thường của sự khác biệt về giới bao gồm: sự ái nam ái nữ ở người, Hội chứng Turner, Hội chứng Klinefelter, và Hội chứng XYY.
4. Một số các nhân trải nghiệm sự khó chịu về giới, hay những rối loạn và đau đớn về tình cảm liên quan đến việc nhận dạng về giới của họ. Những người chuyển đổi giới tính là các cá nhân tin rằng họ bị sinh ra nhầm giới, và họ thường là những người mong muốn được phẫu thuật chuyển đổi giới tính.
5.Kiểu mẫu về giới là sự khái quát hóa một cách giản đơn về vai trò, sự khác biệt và đóng góp của những nhóm hay các cá nhân nhất định. Các kiểu mẫu có thể là tích cực hay tiêu cực, nhưng nó thường liên quan đến các hậu quả tiêu cực đối với các cá nhân và xã hội. Một hướng tiếp cận để nghi ngờ các vai trò và kiểu mẫu về giới mang tính truyền thống là khái niệm lưỡng tính, hay trộn lẫn các thuộc tính nam giới và nữ giới trong một cá nhân.
Lời nói đầu ……………………………………………………………………………….
Chương 1. Hoạt động tình dục Và Quan điểm Tâm sinh lý xã hội ………..
Chương 2. Nghiên cứu về Tình dục là gì?………………………………………..
Chương 3. Các khuôn mẫu, Vai trò và Nhận dạng về Giới …………………
Chương 4. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Phụ nữ. ……………………….
Chương 5. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Nam giới ……………………..
Chương 6. Hưng phấn tình dục và Phản ứng lại………………………………..
Chương 7. Thiên hướng Tình dục…………………………………………………..
Chương 8. Các mối quan hệ Yêu đương…………………………………………
Chương 9. Hành vi Tình dục………. ……………………………………………….
Chương 10. Hoạt động tình dục, Sức khỏe và Sự tàn tật……………………
Chương 11. Hoạt động tình dục Và Vòng đời…………………………………..
Chương 12. Thụ thai, Mang thai và Sinh nở………………………………………
Chương 13. Tránh thai và Nạo phá thai……………………………………………
Chương 14. Các bệnh lây truyền qua đường Tình dục…………………………
Chương 15. Rối loạn Tình dục và Cách chữa trị…………………………………
Chương 16. Tình dục đồi trụy.. ………………………………………………………
Chương 17. Chợ tình ……………………………………………………………………
Chương 18. Hoạt động tình dục và Luật pháp……………………………………
Bài viết liên quan
- Đảo ngược hiện tượng bất lực với chế độ ăn…
- Bưởi giúp điều trị gan nhiễm mỡ
- Tác nhân gây hiện tượng tinh trùng yếu
- Các nguyên nhân không ngờ gây rối loạn cương dương
- Công dụng chữa bệnh thần kỳ của nghệ
- Đông y điều trị viêm gan
- 10 lý do khiến nam giới vô sinh
- Đậu đen trị đau lưng
- Người yếu sinh lý nên kiêng gì?
- Biện pháp tự nhiên điều trị rối loạn cương dương