Nguyên tắc khi cho ăn dặm
Ăn dặm – bữa ăn đầu đời của trẻ, quan trọng không phải chỉ vì cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển mạnh mẽ của trẻ mà còn vì chúng là “sứ giả” giới thiệu thế giới muôn ngàn mùi vị của thức ăn. Những bữa ăn đầu đời định hướng cảm nhận ẩm thực, thói quen ăn uống cho trẻ.
Tùy thể trạng từng bé, bạn có thể tập cho con nhỏ ăn đặc (ăn dặm) từ từ, bắt đầu từ 5-6 tháng tuổi trở đi. Gọi là ăn dặm vì đây là những bữa ăn tập dần cho trẻ làm quen với thức ăn đặc. Không thể thay thế được sữa mẹ hoặc sữa bột ngay tức thời mà phải xen kẽ. Thoạt đầu thì chỉ cần vài muỗng bột để làm quen. Nhưng khi bé đã khoái khẩu rồi và hệ tiêu hóa bé cũng đã làm quen với thức ăn thì bạn tăng dần thành bữa chính.
Thời kỳ ăn dặm của bé chia thành 3 giai đoạn:
– Giai đoạn ăn bột: Bắt đầu từ 6 tháng tuổi trở đi, mẹ đã có thể cho bé nhấm nháp một chút bột được rồi. Trong giai đoạn này, có thể mua bột dinh dưỡng đóng hộp của các hãng có uy tín, vì loại bột này có chứa đầy đủ các dưỡng chất cần thiết cho trẻ. Nếu bạn tự chế biến cho trẻ ăn cần đảm bảo hợp vệ sinh và đầy đủ dinh dưỡng, tuy nhiên bạn nên lưu ý những thức ăn có thể làm cho trẻ bị dị ứng.
– Giai đoạn ăn cháo: Khi bé được 9 – 10 tháng (có bé sớm hơn) và đã ăn được kha khá, bạn có thể nấu cháo cho bé ăn. Không nên chỉ hầm xương lấy nước, vì nước ngọt của xương hoàn toàn không cung cấp đủ chất dinh dưỡng, mà bé cần ăn cả xác thịt, cá, rau củ. Nên hầm riêng một nồi cháo nhừ. Mỗi bữa ăn của bé, bạn múc cháo ra và cho thịt, cá, rau củ vào nấu chín từng bữa, thêm dầu ăn cho bé ăn. Khi nấu cho bé, bạn nên nêm thật nhạt. Nếu không có mắm muối mà bé vẫn ăn ngon thì càng tốt.
Lúc đầu dùng rây thưa tán cháo. Sau đó, chỉ cần băm nhuyễn thịt, cá và rau củ là được. Bạn nên tập dần cho bé quen từ thức ăn nhuyễn đến hạt lợn cợn và cuối cùng là cho ăn cơm.
– Giai đoạn ăn cơm: Khi có đủ răng (20 cái), bé mới có thể nhai cơm thật kỹ. Bạn nên nấu cơm mềm và dằm nát cho trẻ ăn. Tập cho trẻ ăn các loại rau, củ bằng cách nấu canh rau đay, canh mồng tơi, canh bí đỏ, canh súp (nấu với cà-rốt, khoai tây, súp-lơ, su hào). Nên cắt ngắn rau cho bé dễ nhai để bé không bị hóc cọng rau.
Bữa ăn của trẻ phải bao gồm đầy đủ bốn nhóm dinh dưỡng chính:
- Tinh bột: gạo, khoai, nui, bánh mì…
- Chất đạm: cá, thịt, trứng, tôm, cua, đậu hũ…
- Rau, trái cây: ngoài việc cho bé ăn rau, củ, nên cho bé ăn trái cây tươi: nho, cam, quít, chuối, đu đủ…
- Dầu thực vật: tốt nhất nên dùng dầu mè, dầu ô-liu, dầu hướng dương (trộn vào chén bột, cháo).
Bạn nên hiểu là ăn dặm không thể hoàn toàn thay thế sữa. Khi bé không bú mẹ nữa thì bạn nên thay thế sữa mẹ bằng sữa bột. Có thể cho bé bú bình hoặc uống bằng ly. Sữa là nguồn dinh dưỡng tốt, giàu can-xi nên cực kỳ quan trọng với trẻ. Bạn cần tập cho trẻ thói quen uống sữa mỗi ngày cho đến lúc trưởng thành.
Khi nấu cho trẻ, nên linh động trong thực đơn mỗi bữa, ví dụ trưa ăn tôm thì chiều ăn thịt, món rau cũng thay đổi như vậy. Tránh không lặp đi lặp lại một công thức dễ khiến bé ngán ăn và gây ra thừa hoặc thiếu các dưỡng chất.
Không nên nêm nhiều muối vào thức ăn của trẻ vì không tốt cho thận của trẻ, có nguy cơ cao huyết áp khi lớn lên. Chỉ nên dùng muối i-ốt cho trẻ.
Ngoài cơm, bạn cũng nên tập cho trẻ ăn bún, mì, nui, bánh mì, ngũ cốc. Sự phong phú thức ăn khiến trẻ cảm thấy mới mẻ và hào hứng. Hơn nữa, tập cho trẻ dễ dàng tiếp cận và hòa mình với thế giới xung quanh. Nhưng bé cũng có thể không sốt sắng nếm thử những thức ăn mới lạ. Hãy cho bé thời gian để làm quen với thức ăn. Đừng cố ép bé ăn nếu như bé đã cảm thấy vừa no. Một bữa ăn dinh dưỡng là một bữa ăn cung cấp đầy đủ dưỡng chất theo chế độ hợp lý. Thiếu và thừa dinh dưỡng đều không tốt cho sức khỏe và sự phát triển của trẻ.
Bạn cần biết:
– Calorie: Là đơn vị đo năng lượng có chứa trong thức ăn. Theo tỉ lệ cân nặng cơ thể, trẻ cần lượng calorie nhiều gấp 2,5 – 3 lần so với người lớn. Chất tinh bột là nguồn calorie chính yếu.
– Protein (chất đạm): Rất quan trọng cho sự sống vì giúp xây dựng tế bào và mô cơ thể. Nhu cầu về protein của trẻ lớn gấp 3 lần nhu cầu của người lớn (theo tỉ lệ trọng lượng cơ thể).
– Vitamin: Là chất thiết yếu cho sức khỏe. Nên hỏi ý kiến bác sĩ xem có cần bổ sung thuốc bổ sinh tố kịp thời cho trẻ không.
– Khoáng chất: Can-xi, phốt-pho, ma-gie cần thiết cho sự tăng trưởng xương và cơ bắp. Trẻ sinh ra đã sẵn có lượng dự trữ chất sắt (Fe) đủ dùng trong 4 tháng. Sau đó, cần cung cấp sắt cho trẻ trong các bữa ăn hoặc thuốc bổ.
Nên và không nên:
– Nên:
- Chọn thực phẩm tươi ở các cửa hàng thực phẩm sạch. Mua ngày nào dùng hết ngày đó.
- Dùng trái cây và rau ngay sau khi mua về.
- Hấp rau củ hoặc nấu chín với ít nước (giúp giữ được các vitamin trong quá trình đun nấu).
- Nấu chín kỹ thức ăn: thịt, cá, trứng…
– Không nên:
- Cho bé ăn thức ăn thừa.
- Đun nấu quá lâu rau củ (vì sẽ hủy hết vitamin).
- Khi chế biến thức ăn với khối lượng lớn, đừng để nguội thức ăn trước khi cho vào tủ lạnh (vì vi khuẩn sẽ có cơ hội sinh sôi). Đặt thức ăn nóng vào đĩa lạnh, đậy lại và cho vào tủ lạnh.
- Dùng nhiều chất béo bão hòa (mỡ động vật, bơ).
- Dùng nhiều muối.
- Dùng nhiều đường (ngọt, dễ hư răng).
- Khi mới tập ăn, không nên cho bé ăn phô-mai mềm, lòng đỏ trứng, đậu phộng tán nhuyễn sẽ làm bé dễ bị sặc.
Những thắc mắc thông thường khi cho bé ăn dặm:
Tại sao phải cho trẻ ăn dặm?
Vì khi lớn lên, trẻ cần nhiều năng lượng hơn để hoạt động nhiều hơn. Tuy nhiên, mỗi cữ bú, bao tử của bé chỉ chứa được một lượng sữa nhất định mà thôi. Vì vậy, bạn nên thay thế dần bằng chế độ ăn đặc chứa nhiều tinh bột, chất béo và đạm để bảo đảm cung cấp đủ năng lượng và dưỡng chất cho cơ thể.
Tại sao không nên cho trẻ ăn dặm sớm hơn hoặc trễ hơn?
Trước 6 tháng, cơ thể bé còn non yếu, chưa có khả năng tiêu hóa và hấp thu tốt các chất dinh dưỡng. Nếu ăn dặm sớm dễ gây ra suy dinh dưỡng.
Nếu ăn dặm quá trễ (sau 6 tháng), bé sẽ thiếu hụt lượng dinh dưỡng cần thiết để cung cấp cho cơ thể trong quá trình phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn đầu đời. Hơn nữa, cho ăn dặm trễ sẽ gặp khó khăn khi tập cho trẻ tiếp nhận với các loại thức ăn.
Khi ăn, trẻ cứ phun phì phì, làm sao tập cho trẻ làm quen với thức ăn mới?
Đầu tiên, chỉ nên tập cho bé ăn một loại thức ăn mới thôi. Thử cho bé ăn một lần và đợi vài ngày sau cho bé ăn lại cùng thức ăn đó, xem bé có phản ứng hay không.
Để tránh việc bé phun thức ăn, bạn nên cho bé làm quen với thức ăn đặc vào trước cữ bú sữa. Dùng muỗng nhỏ (1/3 muỗng) để đút thức ăn cho bé. Đừng đút một muỗng đầy và đừng đút sâu vào miệng trẻ: trẻ sẽ bị nghẹn và phun ngược thức ăn ra ngoài.
Nên tập cho trẻ ăn dặm trong cữ ăn nào là dễ nhất?
Bữa trưa là cữ tập cho ăn lý tưởng nhất vì trẻ không đói cồn cào (vì đã có bữa sáng rồi). Trẻ sẽ tỉnh táo và chịu “hợp tác” hơn.
Khi tập cho trẻ ăn dặm, có nên cho trẻ uống nước thoải mái không?
Hãy cho trẻ uống nước sau bữa ăn và những lúc trẻ khát. Nhưng đừng cho trẻ uống quá nhiều trước giờ ăn.
Có thể tập cho bé ăn trứng và uống nước trái cây ngay không?
Không nên tập cho bé ăn những thức ăn có chứa chất gluten (bột mì), đậu phộng, các chế phẩm từ sữa, hay trứng trong ít nhất 6 tháng để tránh phát sinh những bệnh dị ứng sau này.
Trẻ 4 tháng đã bắt đầu uống được nước trái cây. Vài tháng sau bạn có thể nạo, dầm nhuyễn trái cây cho bé ăn.
Dược sĩ Hưng
SORENTO ONE
CHO TIÊU HÓA KHỎE – CHO TRẺ HAM ĂN
Xem chi tiết sản phẩm tại đây.
Bài viết liên quan
- Những vitamin và chất khoáng quan trọng nhất cho não
- Bệnh viêm phổi không điển hình ở trẻ
- Thiếu Oxy não là gì?
- Điều nên biết về U xơ tử cung
- Chăm sóc gan và một số điều cần lưu ý
- Hỗ trợ đường tiêu hóa bằng thực phẩm
- Viêm khớp ngón tay cái
- Bệnh về gan gây cản trở khả năng đi lại
- Liệu ăn quá nhiều chất xơ có bị co thắt…
- Hỗ trợ đường tiêu hóa bằng men vi sinh