HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN: 1900545562 (Từ: 8:00 - 17:00)

    Kiến thức giới tính

    Chương 13 : Tránh Thai và Nạo Phá Thai

    Mặc dù mọi người thường sử dụng từ phương pháp hạn chế sinh đẻ (birth control) và phương pháp tránh thụ thai (contraception) hoán đổi cho nhau, nhưng hai từ này không hoàn toàn giống nhau. Phương pháp hạn chế sinh đẻ mang nghĩa rộng hơn, bao gồm cả phương phòng tránh thai, và chấm dứt việc mang thai đã xảy ra. Do đó nạo phá thai là một phương pháp hạn chế sinh đẻ chứ không phải là phương pháp tránh thai.

      Thực Tế Về Hoạt Động Tình Dục Ở Con Người

    Tác giả : Bác Sĩ George D. Zgourides, Thạc Sĩ Christie S. Zgourides.

    Dịch viên: Nguyễn Hồng Trang 

    CHƯƠNG 13 : TRÁNH THAI VÀ NẠO PHÁ THAI

    Ở những trang tiếp theo, chúng tôi sẽ thảo luận một số phương pháp tránh thai khác và hạn chế sinh đẻ khác nhau hiện được sử dụng ngày nay. Việc thảo luận về các phương pháp này bao gồm cách sử dụng, hiệu quả, lợi ích và bất lợi. Tất cả những vấn đề này liên quan đến kế hoạch hóa gia đình (family planning, hay planned parenthood) – lựa chọn khi nào thì có con.

    TRÁNH THAI VÀ KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH

    Trong suốt quá trình lịch sử, nam giới và phụ nữ luôn quan tâm đến việc tránh thai (có nghĩa là “chống lại việc thụ thai”), hay tránh có mang bằng cách ngăn không cho tinh trùng kết hợp với trứng. Từ thời cổ đại, người Ai Cập đã đặt phân cá sấu vào trong âm đạo của người phụ nữ để ngăn không cho tinh dịch di chuyển qua cổ tử cung, người Do Thái sử dụng biện pháp phá vỡ sự liên tục của giao hợp (coitus interruptus) (rút dương vật ra khỏi âm đạo trước khi xuất tinh), đến ngày nay con người có các thuốc tránh thai dạng uống, triệt sản… tóm lại con người luôn tìm cách để tránh thụ thai. Chỉ có những thập niên gần đây, các nhà khoa học mới phát triển các phương pháp đáng tin cậy hơn để tránh mang thai. Tuy nhiên, hàng năm ở Mỹ vẫn có hơn 3 triệu nữ thanh thiếu niên và phụ nữ mang thai không có chủ ý.

    Có nhiều phương pháp tránh thai, một số phương pháp trong những phương pháp này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của các bác sĩ. Không phải tất cả các phương pháp tránh thai đều thuận tiện, an toàn và có hiệu quả như nhau; có nhiều sự khác biệt giữa phương pháp này với phương pháp kia. Trên thực tế, trừ ngoại lệ là không có bất kỳ hoạt động tình dục nào với bạn tình, còn không thì chẳng có phương pháp tránh thai nào là có hiệu quả 100% cả. Hơn nữa, tránh thai thất bại thường là do sử dụng sai cách, sử dụng không kiên định, hay không sử dụng những phương pháp và dụng cụ tránh thai.

    Tránh thai được chia thành nhiều nhóm: các phương pháp hooc môn, các phương pháp hóa học, các phương pháp hàng rào, các phương pháp kế hoạch hóa gia đình tự nhiên, và triệt sản. Mỗi một phương pháp trong những phương pháp trên có một tỷ lệ thất bại điển hình (tỷ lệ phần trăm những phụ nữ có thai ngoài ý muốn trong năm đầu tiên sử dụng một phương pháp nào đó mà việc sử dụng này là không đúng cách hoặc không kiên định).

    Mang thai

    Các phương pháp tránh thai bằng hooc môn

    Được sử dụng rất rộng rãi ở Mỹ vào những năm 60, thuốc tránh thai dạng uống (oral contraceptives) được sử dụng rộng rãi thứ hai sau phương pháp triệt sản. Ngày nay, theo ước tính có khoảng 60 triệu phụ nữ trên thế giới sử dụng thuốc tránh thai, ở Mỹ có khoảng 14 triệu. Phụ nữ không chỉ sử dụng thuốc tránh thai để đề phòng việc mang bầu, mà nhiều người trong số họ còn sử dụng thuốc tránh thai vì các lợi ích sức khỏe khác (sẽ được đề cập ở dưới). “Thuốc này” có tỷ lệ thất bại trong việc phòng tránh thai là 3%.

    Mặc dù có nhiều dạng thuốc phòng tránh thai được lưu hành, nhưng ba loại sau đây là những loại phổ biến nhất:thuốc tránh thai viên nhỏ (minipill) (chứa pro-ges-tin, một dạng tổng hợp của pro-ges-te-rone), thuốc tránh thai viên tổng hợp (combination pill) (chứa cả pro-ges-tin và es-tro-gen tổng hợp, được giải phóng ở mức độ không đổi) và thuốc tránh thai nhiều giai đoạn (multiphasic pill) (chứa cả pro-ges-tin và es-tro-gen tổng hợp, được giải phóng ở mức độ dao động). Những viên thuốc này có tác dụng phòng tránh thai bằng cách làm thay đổi hooc môn sinh dục của người phụ nữ. Đặc biệt, pro-ges-tin ngăn không cho tinh trùng thâm nhập vào tử cung bằng cách làm cho nước nhầy ở cổ tử cung dầy lên và cản trở sự di chuyển của trứng qua vòi fallope. Es-tro-gen tổng hợp có tác dụng chủ yếu là ngăn cản sự rụng trứng và làm tổ của trứng đã được thụ tinh ở thành tử cung. Phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai viên nhỏ hàng ngày (thậm chí kể cả ngày có kinh), hoặc cô có thể sử dụng thuốc tránh thai viên tổng hợp 21 ngày nếu cô có chu kỳ kinh nguyệt là 28 ngày. Dù có sử dụng thuốc viên tránh thai loại nào đi nữa, thì cô cũng phải sử dụng đều đặn. Nếu có lỡ quên không sử dụng thuốc thì phải uống thuốc bù ngay sau khi phát hiện ra và sau đó uống viên tiếp theo đúng kế hoạch. Nếu lỡ quên không sử dụng nhiều hơn một lần, người phụ nữ phải thông báo cho bác sĩ hay y tá để nhận được sự hướng dẫn.

    Một loại viên tránh thai dạng uống khác dành cho phụ nữ là viên tránh thai uống vào sáng hôm sau (morning-after pill), loại thuốc này giải phóng một lượng lớn pro-ges-tin và es-tro-gen tổng hợp vào máu trong vòng vài giờ hoặc vài ngày sau khi giao hợp. Mức độ cao như vậy của các hooc môn này có thể gây ra những phản ứng phụ, chẳng hạn như buồn nôn, ói, xáo trộn chu kỳ kinh nguyệt. Vì lý do này, viên tránh thai uống vào sáng hôm sau – thường phát huy tác dụng trong vòng 72 giờ trứng rụng – chỉ dùng cho những trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như sau khi bị hãm hiếp hay khi các phương pháp tránh thai khác thất bại.

    Còn các thuốc tránh thai giành cho nam giới thì sao? Cục Thực phẩm và Dược phẩm (Food and Drug Administration) hiện tại đang thử nghiệm gossypol, chiết xuất từ cây bông, được sử dụng như thuốc viên tránh thai giành cho nam giới. Nam giới Trung Quốc đã sử dụng gossypol nhiều năm rồi, và theo báo cáo thì hiệu quả của nó lên đến 99%. Nếu sử dụng thuốc này hàng ngày thì số lượng tinh trùng của nam giới có thể giảm đến 0 mà không gây ảnh hưởng đến mức độ tes-tos-te-rone. Tuy nhiên sự sinh tinh thường không phải lức nào cũng xuất hiện lại sau khi dừng việc sử dụng thuốc. Vì gossypol là độc dược, nó gây ra sự suy giảm ka-li và các vấn đề liên quan đến tim mạch ở một số nam giới nên các nhà nghiên cứu ở Mỹ đang tập trung đến việc tìm kiếm một phiên bản không gây độc của loại thuốc này.

    Các lợi ích của thuốc tránh thai. Những lợi ích tiềm năng về mặt sức khỏe của việc sử dụng thuốc lớn hơn so với những nguy cơ biến chứng của nó. Ích lợi quan trọng nhất của thuốc tránh thai là bảo vệ chống lại ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung, u nang buồng trứng, u vú lành tính, mang thai lạc, và một số dạng nhất định của các bệnh viêm vùng chậu. Các tác dụng tích cực khác của thuốc bao gồm: làm giảm nguy cơ bị viêm khớp; loại bỏ mụn; và làm giảm lượng kinh, các thay đổi đổi tâm tính, sự căng thẳng và chứng chuột rút liên quan đến hội chứng tiền kinh nguyệt. Như một người sử dụng đã nói:

    Ghi Chép Cá Nhân (Jan, 27 tuổi) : 

    Tôi phải chịu hội chứng tiền kinh nguyệt nặng — hầu như phải chịu tất cả các triệu chứng có liên quan đến hội chứng này – trong vòng vài tuần hàng tháng. Tôi đã thử rất nhiều cách để làm giảm vấn đề này: kiểm soát chế độ ăn uống, sử dụng liệu pháp vitamin, sử dụng thuốc lợi tiểu – tất cả mọi thứ. Mỗi cách có tác dụng một chút, nhưng vẫn chưa đủ, thậm chí ngay cả khi tôi kết hợp tất cả các cách. Sau đó bác sĩ của tôi thử cho tôi sử dụng thuốc tránh thai, và một tháng sau khi sử dụng hầu hết các triệu chứng liên quan đến tiền kinh nguyệt biến mất. Bây giờ, sau sáu năm, tôi hiếm khi phải bận tâm đến những rắc rối liên quan đến hội chứng tiền kinh nguyệt. Đối với tôi, chúng không phải chỉ là thuốc tránh thai mà chúng là những viên thuốc “hạnh phúc” vì chúng giúp tôi trở lại trạng thái bình thường và ôn hòa. (Tư liệu của bác sĩ Zgourides)

    Những người sử dụng thuốc tránh thai không cần phải lo lắng về việc sẽ mất khả năng sinh sản mãi mãi. Một số phụ nữ có hoạt động tình dục năng động sẽ thụ thai ngay sau khi ngừng sử dụng thuốc. Những người khác có thể sẽ chậm mang bầu khoảng hai hay ba tháng sau khi dừng uống thuốc. Chỉ có khoảng từ 1 đến 2% phụ nữ là không thấy kinh trong 6 tháng kể từ khi dừng uống thuốc.

    Những bất lợi của việc sử dụng thuốc tránh thai. Đối với một số phụ nữ hoạt động của es-tro-gen và pro-ges-te-rone trong thuốc tránh thai dẫn đến các biến chứng, chẳng hạn như mất kinh hay ra máu kinh rất ít, ra máu giữa hai kỳ kinh, buồn nôn, ngực lớn hơn hoặc mềm, thay đổi tâm tính bao gồm cả trầm cảm, tăng hoặc giảm cân, da có sự thay đổi, giảm ham muốn tình dục, sự tiết sữa bị ức chế, nhiễm trùng đường tiết niệu, đau đầu, gặp các vấn đề về mắt, bệnh về túi mật, u gan lành tính. Những tác dụng phụ này thường biến mất khi người phụ nữ dùng thuốc được một thời gian. Nếu sau một thời gian các tác dụng phụ này vẫn gây khó chịu hoặc trở thành vấn đề thì cần phải thay đổi liều dùng và loại thuốc tránh thai. Vì lượng hooc môn của thuốc đôi khi cũng xuất hiện ở trong sữa nên người mẹ không được sử dụng thuốc tránh thai trong thời gian cho con bú.

    Nhiều phụ nữ bày tỏ sự lo lắng về nguy cơ bị ung thư vú do sử dụng thuốc tránh thai. Nhưng đến nay, các nghiên cứu về vấn đề này vẫn chưa cho kết quả, hoặc cho các kết quả trái ngược nhau. Tuy nhiên, ở một vài phụ nữ, thuốc tránh thai có thể dẫn đến các biến chứng đe dọa đến sinh mạng của con người. Nguy cơ huyết khối (sự hình thành của các cục máu, hay cục nghẽn) là tác dụng phụ tiềm năng nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng thuốc. Những căn bệnh nặng gây tử vong có thể xuất hiện nếu như các cục nghẽn di chuyển và nằm ở các cơ quan thiết yếu đối với sự sống như phổi, tim hay não. Ít hơn 5% những người sử dụng thuốc tránh thai sẽ phát triển bệnhcao huyết áp, căn bệnh này có thể gây tổn hại lớn đến mạch máu và các cơ quan quan trọng của cơ thể, đặc biệt là não, tim, thận. Ở một số trường hợp, huyết áp cao là nguyên nhân gây ra đau tim và đột quỵ.

    Vì những biến chứng tiềm ẩn này mà phụ nữ có thể do dự khi thử sử dụng thuốc uống tránh thai. Nghiên cứu chỉ ra rằng thuốc tránh thai có thể nguy hiểm đối với những phụ nữ có nguy cơ cao, chẳng hạn như những người hút thuốc lá, có các vấn đề về huyết khối, và trên 35 tuổi. Còn đối với đa phần những phụ nữ có nguy cơ thấp thì thuốc tránh thai là một trong những phương pháp tránh thai an toàn và có hiệu quả nhất.

    Các phương pháp tránh thai bằng hooc môn khác. Có hai loại tránh thai bằng hooc môn khác được sử dụng phổ biến ở Mỹ. Norplant là một bao vỏ, hình que diêm có tác dụng lâu dài, nó được phẫu thuật cấy dưới da ở phía trong phần trên của cánh tay. Bao vỏ phát huy tác dụng trong vòng 24 giờ sau khi cấy, nó giải phóng pro-ges-tin và vẫn nằm ở đó cho đến khi hooc môn này đã di chuyển hết, tác dụng phòng tránh thai của nó lên đến 5 năm. Ưu điểm cơ bản của nor-plant là không gây rắc rối khi sử dụng; người phụ nữ không cần phải nhớ thời gian sử dụng vì nó đã được cấy dưới da. Phụ nữ hoàn toàn có thể mang thai lại khi ngừng sử dụng norplant, và tỷ lệ thất bại trong việc phòng tránh thai rất thấp, ít hơn 1%. Những nhược điểm của norplant là chi phí cao, có khả năng gây ra tình trạng kinh nguyệt không đều, đau đầu, tăng cân, mụn, trầm cảm, và vẫn cần phải sử dụng bao cao su để tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục.

    Chất medroxy pro-ges-te-rone axêtát hay Depo-Provera, là một dạng thuốc tiêm pro-ges-tin có tác dụng lâu dài. Một mũi tiêm thường có tác dụng từ 3 đến 4 tháng. Các ích lợi của Depo-Provera bao gồm: làm giảm các triệu chứng có liên quan đến tiền kinh nguyệt, đau do rụng trứng, co rút do kinh nguyệt và giảm lượng máu kinh. Tỷ lệ thất bại trong việc phòng tránh thai của Depo-Provera cũng dưới 1%. Các nhược điểm của nó bao gồm: gây hiện tượng kinh nguyệt không đều, khả năng có thai lại sau khi ngừng sử dụng chậm (có thể lên đến 1 năm), làm giảm ham muốn tình dục, gây đau đầu, chóng mặt, trầm cảm và tăng cân.

    Các phương pháp tránh thai sử dụng hóa chất

    Có một số phương pháp tránh thai sử dụng hóa chất, hai trong số đó là dùng chất diệt tinh trùng (spermicides)và vòng tránh thai (IUDS).

    Chất diệt tinh trùng có thể ở dưới dạng kem, dạng bọt, dạng đông, dạng màng, và thuốc đạn. Khi người phụ nữ đưa chất diệt tinh trùng vào trong âm đạo (ít nhất là một vài phút trước khi xuất tinh) thì chất này bao phủ quanh thành âm đạo và phần mở của cổ tử cung. Sau đó, chất diệt tinh trùng ngăn không cho tinh trùng tiến đến cổ tử cung bằng cách giết chết tinh trùng khi có sự tiếp xúc. Bên cạnh khả năng gây ra sự dơ bẩn và khó áp dụng thì chất diệt tinh trùng có thể gây ngứa ngáy, rát và nhiễm trùng đường tiết niệu. Mặc dù các chất diệt tinh trùng được sử dụng rộng rãi nhưng nếu chỉ sử dụng một mình chúng thì không được hiệu quả cho lắm, cho dù sử dụng chúng không đắt tiền và không cần phải kê đơn. Tính hiệu quả của chất diệt tinh trùng có thể sẽ tăng lên bằng cách sử dụng chúng cùng với các phương pháp khác. Sử dụng chất diệt tinh trùng không thôi có tỷ lệ thất bại trong việc tránh thai lên đến 21%.

    Bác sĩ đưa vòng tránh thai (intrauterine device (IUD), một dụng cụ bằng kim loại hay nhựa vào trong tử cung thông qua ống cổ tử cung. Vòng tránh thai có nhiều hình dạng và kích cỡ: hình chữ T, hình vòng cuộn, vòng dây, lò xo, và vòng tròn. Chúng cũng có thể là một lò xo mỏng hay dây nhựa treo trong âm đạo, nhờ người phụ nữ có thể kiểm tra định kỳ để đảm bảo nó vẫn nằm đúng vị trí. Chúng ta không biết rõ những công cụ này hoạt động như thế nào, nhưng có thể chúng ngăn chặn sự thụ thai bằng cách giết chết tinh trùng và trứng nhờ sự thay đổi về mặt hóa học của môi trường tử cung và /hay ngăn chặn sự làm tổ của trứng. Tác dụng phụ phổ biến nhất của vòng tránh thai là gây chảy máu khi lắp vòng, tuy nhiên cũng có một số biến chứng khác có thể nảy sinh chẳng hạn như gây ra các nốt đỏ, xuất huyết, co rút, đau nhức, thiếu máu, nhiễm trùng, viêm vùng chậu và thủng cổ tử cung hoặc tử cung. Vònh tránh thai là một phương pháp tránh thai có hiệu quả với tỷ lệ thất bại không vượt quá 2%. Vì vòng tránh thai gây ra viêm nhiễm ở vùng chậu, sẩy thai và tử vong ở một số trường hợp nên có ít hơn 1% phụ nữ Mỹ sử dụng vòng tránh thai như một phương pháp kiểm soát sự sinh đẻ.

    Các phương pháp hàng rào phòng tránh thai

    Các phương pháp tránh thai hàng rào phòng tránh thai bằng cách phong tỏa tinh trùng trước khi chúng có thể gặp trứng. Màng tránh thai (diaphragm), mũ đội cổ tử cung (cervical cap), và bao cao su (condoms) là những phương pháp tránh thai hàng rào phổ biến nhất.

    Nhiều phụ nữ sử dụng màng tránh thai, hình vòm bằng cao su có viền kim loại dẻo, để tránh những biến chứng do các phương pháp tránh thai bằng thuốc và đặt vòng gây ra. Bác sĩ đặt màng tránh thai một cách thích hợp bao quanh cổ tử cung của người phụ nữ và đảm bảo rằng màng tránh thai đó nằm đúng chỗ. Vì người phụ nữ không thể cảm thấy thế nào là đúng chỗ, vừa vặn và liệu màng tránh thai đã được đặt vào hay chưa nên thỉnh thoảng họ có thể cần phải kiểm tra, chỉnh sửa lại màng tránh thai, đặc biệt là sau khi người phụ nữ sinh con hoặc sau khi tăng/giảm từ 10 pao trở lên/xuống. Người phụ nữ đặt màng tránh thai trước khi giao hợp 6 tiếng và để đó từ 6 đến 8 tiếng sau khi giao hợp. Cô cũng có thể sử dụng thêm chất diệt tinh trùng để bổ trợ cho màng tránh thai đối với mỗi hành động giao hợp. Màng tránh thai có thể bị bật ra trong khi giao hợp, chủ yếu là do không vừa hay được lắp không đúng cách. Tuy nhiên, sự thất bại của màng tránh thai thường là do không sử dụng chúng mỗi lần giao hợp. Tỷ lệ thất bại của màng tránh thai là vào khoảng 18%.

    Mũ đội cổ tử cung là một dụng cụ có kích thước bằng cái đê (vật mang ở đầu ngón tay khi thêu), trông giống cái chén, vừa vặn với cổ tử cung. Nó có vòm cao hơn và thành dày hơn so với màng tránh thai, và nó được đặt ở đúng vị trí bằng cách bơm hút. Giống với màng tránh thai, người phụ nữ đặt mũ đội cổ tử cung trước mỗi lần giao hợp 6 tiếng, và để nó ở đó từ 6 đến 8 tiếng sau khi giao hợp. Phụ nữ thường đưa vào trong mũ này chất diệt tinh trùng trước khi đặt nó vào trong âm đạo của mình. Mũ đội cổ tử cung là một lựa chọn khác đối với những phụ nữ gặp vấn đề liên quan đến sự vừa vặn của màng tránh thai. Tỷ lệ thất bại của mũ đội cổ tử cung đối với những phụ nữ đã sinh con rồi là 36%, còn đối với những phụ nữ chưa sinh con là 18%.

    Bao cao su là một vỏ bọc bằng nhựa cao su mỏng hay màng bao quanh dương vật cương cứng để ngăn không cho tinh trùng thâm nhập vào âm đạo. Đây là dạng tránh thai duy nhất có thể sử dụng hai mặt (có thể lộn mặt trái ra ngoài để sử dụng) dành cho nam giới. Bao cao su có nhiều màu sắc, kích cỡ và kiểu dáng. Một số bao cao su được bôi trơn, trong khi những loại khác lại có viền gân để gây thêm kích thích cho dương vật và âm đạo. Nếu được sử dụng đúng cách, bao cao su có thể là công cụ hữu hiệu để phòng tránh thai, tỷ lệ thất bại của bao cao su là khoảng 12%. Khả năng phòng tránh thai của bao cao su tăng lên khi sử dụng kết hợp nó với chất diệt tinh trùng như nonoxynol-9 và các phương pháp khác, chẳng hạn như phụ nữ sử dụng màng tránh thai. Ngoài nguyên nhân thất bại do không sử dụng và sử dụng không đúng cách thì việc không phòng tránh thai được của bao cao su là còn do rách, thủng, hay bao cao su bị tuột khỏi dương vật. Do đó, nam giới nên kiểm tra cẩn thận xem bao cao su có bị rách, thủng không trước khi sử dụng. Nam giới cũng nên kiểm tra bằng cách véo vào đầu bao cao su xem nó có đầu chứa hay không, sử dụng ngón cái và ngón trỏ khi đeo bao cao su vào dương vật để đảm bảo rằng không khí không tràn vào bao cao su. Không bao giờ được sử dụng chất bôi trơn có gốc dầu hay nhớt dầu mỏ (chẳng hạn như Vaseline) để bôi trơn mặt trong hay mặt ngoài của bao cao su vì những chất này làm phân rã mủ cao su của bao. Thay vào đó, nam giới có thể sử dụng chất bôi trơn có gốc là nước (chẳng hạn như nhớt K-Y). Ngày nay, nhiều phụ nữ có đời sống tình dục năng động cũng mua bao cao su và yêu cầu bạn tình của mình sử dụng khi quan hệ.

    Công nghệ bao cao su mới nhất là bao cao su giành cho phụ nữ, nó được đeo vào bên trong âm đạo của phụ nữ. Có hai loại bao cao su giành cho phụ nữ, chúng được làm bằng chất sơn bóng hoặc mủ cao su. Loại đầu tiên giống như “G-lò xo”, có túi cuốn ở trong âm đạo. Khi nam giới đưa dương vật vào túi này, bao cao su sẽ đưa vào trong âm đạo. Loại bao cao su thứ hai giành cho phụ nữ là loại có hình bao, có vòng linh hoạt ở hai đầu giúp giữ bao cao su ở đúng vị trí. Tất nhiên đầu gần tử cung nhất của bao cao su được đóng lại.

    Mang thai

    Các phương pháp tránh thai kế hoạch hóa gia đình tự nhiên

    Phương pháp chu kỳ (rhythm method), phương pháp triệu chứng nhiệt (symptothermal method),vàphương pháp chất nhầy cổ tử cung (cervical mucus method) là những phương pháp tránh thai không sử dụng công cụ tránh thai phổ biến nhất. Những phương pháp này được dựa trên các nguyên tắc “kế hoạch hóa gia đình tự nhiên” mà thời gian quan hệ tình dục không rơi vào thời gian rụng trứng. Tuy nhiên, những phương pháp này không được khuyên sử dụng cho những phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt không đều vì rất khó tính thời gian thụ thai. Hơn nữa, giao hợp có thể kích thích việc rụng trứng vào thời điểm không phải là thời gian rụng trứng. Nói cách khác, thụ tinh có thể xảy ra bất kỳ khi nào trong chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ, thậm chí cả khi có kinh; không có thời gian nào là an toàn tuyệt đối 100% hết.

    Phương pháp giao hợp gián đoạn là việc rút dương vật ra khỏi âm đạo vào thời điểm trước khi xuất tinh. Thậm chí ngay cả khi sử dụng kết hợp với phương pháp chu kỳ, thì phương pháp giao hợp gián đoạn cũng có tỷ lệ thất bại là khoảng 20%, vì tinh trùng sống thường rỉ ra ngoài dương vật trước khi xuất tinh như là một phần của chất dịch tiết ra từ tuyến Cowper.

    Ghi chép Cá nhân (Carl, 33 tuổi)

    Tôi không bao giờ sử dụng cách giao hợp gián đoạn và coi nó nhưng một phương pháp tránh thai cả. Tôi cũng chẳng biết chắc tại sao lại thế, nhưng đôi khi tinh dịch của tôi chảy ra trước khi tôi lên đến cực khoái và xuất tinh. Điều này thường xuyên xảy ra sau khi tôi bị dị ứng với thuốc, đặc biệt là những thuốc có tác dụng thông mũi. (Tư liệu của Bác sĩ Zgourides)

    Kiêng không quan hệ là phương pháp tình nguyện không quan hệ tình dục, phương pháp này đảm bảo tránh thai được 100%. Đây có thể là một phương pháp tránh thai tạm thời hoặc vĩnh viễn. Nhưng đối với nhiều cặp vợ chồng việc thực hiện phương pháp này là rất khó khăn hoặc không thể, kiêng không quan hệ đòi hỏi phải có sự hợp tác của cả hai người. Thay vì quan hệ tình dục, một số cặp vợ chồng chọn cách thực hiện các hành vi ngoài quan hệ (outercourse), đây là các hoạt động tình dục không cần giao hợp (ví dụ như hôn, xoa bóp).

    Sống độc thân là việc kiêng không quan hệ tình dục lâu dài hoặc mãi mãi. Nhiều người sống độc thân, chẳng hạn như thành viên của các tổ chức tôn giáo, còn tránh cả những hoạt động liên quan đến thủ dâm.

    Triệt sản

    Phương pháp tránh thai đáng tin cậy nhất ngày nay là triệt sản, phẫu thuật khiến cho các cá nhân không còn khả năng sinh sản nữa. Triệt sản nam, thuật ngữ gọi là vasectomy (phẫu thuật cắt ống dẫn tinh) là việc cắt một phần của mỗi ống dẫn tinh để ngăn không cho tinh trùng di chuyển vào trong niệu đạo. Phẫu thuật này không gây ảnh hưởng đến số lượng tinh dịch xuất ra, vì tinh trùng chỉ chiếm 1% trong tổng số tinh dịch. Triệt sản nữ, thuật ngữ gọi là tubal ligation hay salpingectomy (thắt ống dẫn trứng) là việc đóng vòi fallope (ống dẫn trứng) ngăn không cho trứng đi vào và được thụ tinh. Đặc biệt, bác sĩ còn đưa dụng cụ soi bụng (laparoscope), hay một ống sáng, vào trong bụng nhờ một vết rạch nhỏ ở bụng. Sau khi đặt ống vào rồi, ống được đóng bằng phẫu thuật cắt và sau đó đốt diệt độc (làm khô hoặc đốt) hay khâu để chúng đóng lại. Những biến chứng có thể liên quan đến việc thắt ống dẫn trứng là gây tổn thương đến ruột hoặc các cơ quan khác trong bụng, và gây xuất huyết. Cả phẫu thuật cắt ống dẫn tinh hay thắt ống dẫn trứng đều không ảnh hưởng gì đến ham muốn tình dục hay sinh hoạt tình dục hết.

    Phẫu thuật cắt ống dẫn tinh có tỷ lệ thất bại là 0.15%; thắt ống dẫn trứng có tỷ lệ là 0.4%. Thất bại trong việc phòng tránh thai của biện pháp triệt sản nam thường là do sai sót trong phẫu thuật hay có quan hệ tình dục quá sớm, ngay sau khi vừa phẫu thuật. Trên thực tế, nam giới được khuyên là nên sử dụng các biện pháp tránh thai khác trong vòng ít nhất là hai tháng sau khi cắt ống dẫn tinh, vì có thể cần thời gian để tinh trùng của anh ta hoàn toàn chuyển khỏi các phần ống dẫn tinh nằm trên chỗ cắt. Thất bại trong việc phòng tránh thai ở nữ giới thường là do mở lại ống dẫn trứng đã được thắt. Ở một số trường hợp, việc triệt sản nam và nữ có thể hủy bỏ được; tuy nhiên làm việc này rất khó, tốn kém và không phải lúc nào cũng thành công. Tỷ lệ thành công trong việc khôi phục lại khả năng sinh sản cho nam giới đã triệt sản là 80%, còn nữ giới là 90% — căn cứ trên tỷ lệ mang thai sau khi phẫu thuật.

    Ghi chép Cá nhân (Bill, 42 tuổi)

    Dana và tôi lúc đầu không muốn sinh con. Chúng tôi nhận thức được về vấn đề dân số trên thế giới. Chúng tôi cũng từng có gia đình riêng trước đây, và đều dính dáng đến những vụ kiện liên quan đến việc ai được quyền nuôi con – bạn cũng biết là nó phức tạp thế nào rồi đấy. Sau khi kết hôn với nhau, cả hai chúng tôi đều nhất trí sử dụng biện pháp triệt sản. Nhưng bạn có tin được không, sau khi cưới nhau được vài năm, chúng tôi lại muốn có con. Bởi thế, cả hai người muốn được làm phẫu thuật khôi phục lại khả năng sinh sản. Chúng tôi đã cùng sửng sốt khi bác sĩ của chúng tôi nói rằng không phải lúc nào cũng có thể khôi phục lại khả năng sinh sản sau khi đã triệt sản, nhưng cuối cùng chúng tôi đã thành công. Bây giờ chúng tôi đã là cha mẹ của một cô con gái nhỏ. (Tư liệu của bác sĩ Zgourides)

    Lựa chọn biện pháp tránh thai

    Biện pháp tránh thai “hoàn hảo” là biện pháp tránh thai có hiệu quả 100%, không gây khó chịu cho cả hai người, có thể có con lại sau khi không sử dụng, đáng tin cậy bất kỳ khi nào được sử dụng, không có các tác dụng phụ tiêu cực, và đòi hỏi ít hoặc không đòi hỏi cần phải chú ý hay không gây phiền toái. Thật không may vì chẳng có phương pháp tránh thai nào được như thế cả, tuy nhiên các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm kiếm phương pháp như vậy.

    Đâu là biện pháp tránh thai tốt nhất dành cho hai người? Đây quả thật là câu hỏi không dễ trả lời, các vấn đề cần phải xem xét bao gồm độ an toàn, tính hiệu quả, khả năng sẵn có, chi phí, sự thoải mái khi sử dụng, và khả năng có con lại khi cần của phương pháp.

    Tầm quan trọng của Kế hoạch hóa gia đình

    Về mặt lịch sử, nhiều cộng đồng và xã hội không khuyến khích sử dụng biện pháp tránh thai để đảm bảo sự tồn tại của các thành viên trong cộng đồng. Nhưng tại sao ngày nay người Mỹ và những người khác trên thế giới lại quan tâm đến các phương pháp kiểm soát sự sinh đẻ đến như vậy? Có rất nhiều lý do, nhưng một lý do quan trọng là do sự bùng nổ dân số trên trái đất, bao gồm cả việc tài nguyên thiên nhiên ngày càng ít đi và thế giới không có khả năng chống đỡ nổi với việc gia tăng số lượng con người. Trong hầu hết quá trình lịch sử của con người, dân số thế giới luôn ở mức tương đối thấp do tỷ lệ trẻ sơ sinh chết cao, tuổi thọ của con người thấp do bệnh tật, dịch bệnh, vệ sinh kém, thiếu đói, thiếu các phương tiện chăm sóc sức khỏe….Nhưng khi các tiến bộ về y học phát triển rộng khắp trên thế giới, dân số trên trái đất “bùng nổ”. Trên thực tế, cứ 35 năm thì số lượng con người trên trái đất tăng lên gấp hai, dân số tăng lên này chủ yếu tập trung ở những nước đang phát triển. Do sự khủng hoảng về dân số này, chính phủ nhiều nước như Trung Quốc đã quyết định quy định số trẻ em được sinh ra cho mỗi gia đình.

    Tại sao lại bực mình vì các biện pháp kiểm soát sinh đẻ? Bên cạnh lý do về sự gia tăng dân số, còn có nhiều lý do tốt khác khiến nam giới và phụ nữ nên sử dụng các biện pháp tránh thai. Đầu tiên và trước nhất, là những người có quan hệ tình dục nhưng không muốn có con. Ví dụ như một cặp vợ chồng trẻ có thể chưa muốn sinh con ngay để sau khi khả năng tài chính được cải thiện đã, hay đối với những thanh thiếu niên chưa xây dựng gia đình, có đời sống tình dục năng động, có thể muốn kết thúc việc học hành trước khi xây dựng gia đình nhằm giảm nguy cơ dựa vào sự trợ giúp tài chính của của chính phủ.

    Kế hoạch hóa gia đình cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ sức khỏe thể chất của cả mẹ lẫn con. Đối với hầu hết phụ nữ, trong những năm sinh sản đầu (khoảng từ 20 đến 39 tuổi) mang thai và sinh con là việc khá an toàn. Nhưng đối với những phụ nữ lớn hơn hay nhỏ hơn tuổi đó, hay những phụ nữ sinh con dày (có nghĩa ít hơn 2 năm lại sinh một lần), thì nguy cơ gặp tai biến sản khoa là khá cao: tử vong ở trẻ sơ sinh, gây tử vong ở mẹ. Ví dụ, trẻ em do phụ nữ trên 40 tuổi hay dưới 19 tuổi sinh ra có nguy cơ nhẹ cân cao, và do đó chúng dễ bị các khiếm khuyết khác nhau khi sinh, thậm chí có thể bị tử vong. Ở trường hợp sau (phụ nữ sinh con khi chưa được 19 tuổi), ước tính ở Mỹ có khoảng gần 1 triệu nữ thanh thiếu niên mang thai mỗi năm, và tỷ lệ em bé sinh ra bởi những người mẹ này có cân nặng dưới 2,5 kg là rất nhiều. Tuy nhiên, không phải tất cả các phụ nữ trên 40 tuổi và dưới 19 tuổi mang bầu đều dẫn đến những vấn đề này mà chúng tôi chỉ muốn nói nguy cơ gặp vấn đề này cao.

    Kế hoạch hóa gia đình cũng có thể giúp đảm bảo sức khỏe tâm lý cho bà mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Cả việc sinh con lẫn trở thành cha mẹ đều là những vấn đề quan trọng và căng thẳng trong cuộc sống. Hơn nữa, làm cha mẹ là một sự cam kết lâu dài về mặt tình cảm, xã hội và tài chính. Chọn thời điểm thích hợp để có con là việc làm quan trọng nhất mà hai vợ chồng có thể làm để giảm bớt những căng thẳng về tình cảm liên quan đến việc mang thai và làm cha mẹ.

    Tất cả mọi điều đã được xem xét, nhưng tại sao vẫn có những người (đặc biệt là thanh thiếu niên, những người trẻ tuổi) lại né tránh, từ chối, hay quên không sử dụng các biện pháp tránh thai? Có nhiều lý do. Một số người đơn giảm cảm thấy rằng sử dụng các biện pháp tránh thai gây phiền phức cho họ. Những người khác có thể hy vọng rằng việc mang thai sẽ giúp họ có được tình yêu vô điều kiện từ đứa trẻ. Những người khác nữa có thể ngại ngùng hay gặp khó khăn trong việc có hay sử dụng các biện pháp tránh thai, hoặc họ có thể gặp phải sự phản đối mang tính tôn giáo khi sử dụng chúng. Ngoài một số ít thanh thiếu niên chủ ý có thai ra thì rất nhiều người trong số họ mang thai do không lường hết được khả năng mang bầu của mình. Vì hầu hết các thanh thiếu niên có đời sống tình dục năng động hoặc là ít hoặc là không bao giờ sử dụng các biện pháp tránh thai nên các trường cấp 3, cao đẳng, đại học và các tổ chức xã hội hiện nay đang cung cấp những thông tin về phòng tránh thai, coi đó như một phần của chương trình giáo dục tình dục trong trường. Các trung tâm dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại địa phương và các chương trình cộng đồng khác cũng làm như vậy để hạn chế số lượng thanh thiếu niên mang thai ngoài ý muốn xuất hiện hàng năm.

    Các nguồn thông tin khác về kế hoạch hóa gia đình, thụ thai, kiểm soát sinh đẻ và sự lựa chọn của người mang thai ngoài ý muốn bao gồm các thông tin từ Liên Hiệp Các Bậc Cha Mẹ Kế Hoạch Hóa Gia Đình Mỹ, Ủy Ban Quốc Gia Về Quyền Được Sống, Hội Hành Động Vì Quyền Nạo Phá Thai Quốc Gia.

    NẠO PHÁ THAI

    Nạo phá thai: Chỉ đề cập đến từ này không thôi đã đủ gây tức giận đối với những người điềm tĩnh và nhạy cảm, nó gây nên sự tranh cãi nóng bòng, tức giận, và có thể biến những người bạn tốt nhất thành kẻ thù. Nạo phá thai quả thực là một vấn đề nóng bỏng, gây tranh cãi cả về mặt xã hội lẫn chính trị. Bạn cứ thử nêu nó ra trong một bữa tiệc, trong một cuộc tụ họp gia đình, một cuộc gặp mặt tôn giáo hay trong lớp học xem, bạn sẽ thấy điều gi xảy ra.

    Thực tế mà nói, khi phải đối mặt với việc mang thai ngoài dự kiến hay không mong muốn thì người phụ nữ và/hay cả hai người đều phải quyết định xem có nên để lại đứa bé, đẻ ra và nuôi lớn hay không, hay cho nó đi làm con nuôi, hay chấm dứt việc mang bầu. Lựa chọn cuối cùng này – nạo phá thai (hay sẩy thai có lựa chọn) – liên quan đến một số bước nhằm chấm dứt việc mang bầu một cách có chủ ý. Trừ một số trường hợp nguy cấp (ví dụ có thể gây tử vong ở mẹ) còn không thì bác sĩ thực hiện việc phá thai khi phôi thai hay thai nhi chưa tự phát triển được, hay không có khả năng sống độc lập bên ngoài cơ thể người mẹ. Đa phần các ca phá thai ngày nay đều được thực hiện ở quý một hoặc đầu quý hai của thai kỳ.

    Ở một số trường hợp, phôi hay bào thai bị sẩy một cách tự nhiên do các biến chứng y tế, việc này được gọi là sẩy thai tự nhiên (spontaneous abortion), hay sẩy thai (miscarriage). Ở đây, tự tử cung đẩy thai ra ngoài, thường xảy ra trước tuần tuổi thứ 12. Khoảng 20% những người mang thai ở Mỹ bị sẩy thai tự nhiên. Sẩy thai là cách tự nhiên ngăn không cho chào đời một đứa trẻ bị dị tật thấy rõ.

    Các phương pháp nạo phá thai

    Bất chấp tất cả những tranh cãi mang tính chính trị, luật pháp, tôn giáo và đạo đức xung quanh việc nạo phá thai, hàng năm vẫn có khoảng 1,5 triệu phụ nữ ở Mỹ chọn cách này để chấm dứt việc mang bầu. Năm phương pháp nạo phá thai phổ biến nhất là: hút chân không (vacuum aspiration), nong và nạo (dilation and curettage) (D và C), phá thai bằng hóa chất (chemical abortion), nong và bài xuất (dilation and evacuation (D và E), vàthủ thuật mở tử cung (hysterotomy).

    Hút chân không. Khi thực hiện thủ thuật hút chân không, bác sĩ hút phôi hay bào thai cùng các chất liên quan ra khỏi tử cung bằng một ống chân không. Sau khi kiểm tra vùng chậu, bác sĩ gây tê rồi mở cổ tử cung của người phụ nữ. Bác sĩ đưa ống chân không vào trong tử cung để hút thai, chất nhầy và máu – toàn bộ quá trình này chỉ diễn ra trong vòng vài phút. Các biến chứng khi thực hiện thủ thuật này bao gồm: đau quặn bụng và chảy máu âm đạo. Hút chân không có lẽ là phương pháp nạo phá thai an toàn nhất, nó thường được thực hiện ở giữa tuần thứ 6 và tuần thứ 14 của quý đầu tiên của thai kỳ.

    Nong và Nạo. Cũng được thực hiện ở quý đầu tiên của thai kỳ (thường từ giữa tuần thứ 6 đến tuần thứ 12), thủ thuật nong và nạo được tiến hành bằng cách: bác sĩ mở cổ tử cung của bệnh nhân, nạo thai và các mô khác bám trên thành tử cung. Việc nạo này được thực hiện với một dụng cụ bằng kim loại, có hình như cái thìa, được gọi làcurette, khi người phụ nữ đã được gây mê. Do nguy cơ nhiễm trùng hay các biến chứng khác nên người phụ nữ cần phải vào viện khi thực hiện thủ thuật này. Thủ thuật nong và nạo cũng được sử dụng để nạo thành tử cung sau khi người phụ nữ bị sẩy thai, hay khi cần phải lấy mẫu mô tử cung để xét nghiệm chuẩn đoán ung thư.

    Phá thai bằng Hóa chất. Đến quý hai của thai kỳ, bào thai đã quá lớn để có thể phá bỏ bằng phương pháp hút chân không hay nong và nạo. Phương pháp an toàn nhất được sử dụng cho thai nhi lớn hơn 13 tuần tuổi là phá thai bằng hóa chất, phương pháp này liên quan đến việc tiêm dung dịch muối hay pros-tag-lan-din (một loại chất như hooc môn) trực tiếp vào trong màng ối. Kết quả là những thay đổi hooc môn trong dịch ối bao quanh thai nhi gây nên sự co bóp tử cung, kích thích đau đẻ sớm và đẩy thai cùng nhau thai ra ngoài.

    Nạo phá thai

    Một số nước gồm Mỹ, Pháp, Anh, Tây Đức, và Trung Quốc, cho phép sử dụng RU-486 để gây sẩy thai ở quý đầu tiên của thai kỳ. Việc sử dụng “thuốc sẩy thai” phong tỏa hoạt động của pro-ges-te-rone, do đó ngăn cản sự làm tổ và/hoặc khiến cho hợp tử đã được thụ tinh bong ra khỏi thành tử cung là vấn đề gây tranh cãi. Một số nhóm người vận động chống lại việc sử dụng thuốc này ở Mỹ, chủ yếu bởi vì khả năng gây ra nhiều ca phá thai hơn nhờ thuốc. Những nhóm người khác tin rằng thuốc là phương pháp phá thai an toàn, hiệu quả, và không đòi hỏi phải can thiệp bằng dụng cụ.

    Nong và Bài xuất. Bác sĩ thực hiện thủ thuật nong và bài xuất khi thai đã sang quý hai, lúc này thai nhi quá to, không thể phá bỏ bằng phương pháp hút chân không hay phương pháp nong và nạo. Khi bệnh nhân đã được đựa vào viện và được gây mê toàn bộ, bác sĩ mở ống cổ tử cung, lấy thai và nhau thai bằng cách sử dụng ống hút chân không và cái kẹp (một dụng cụ gắp kim loại). Sau đó, bác sĩ dùng dụng cụ nạo để nạo hết thành tử cung.

    Thủ thuật mở tử cung. Khi tiến hành thủ thuật mở tử cung, bác sĩ phẫu thuật lấy thai nhi ra thông qua việc mở bụng người phụ nữ. Vì đây là thủ thuật nghiêm trọng hơn các thủ thuật khác nên nó ít khi được thực hiện, chỉ tiến hành khi phải cứu tính mạng của người mẹ hay khi thai nhi đã ở cuối quý hai của thai kỳ. Thủ thuật mở tử cung cũng thích hợp đối với những phụ nữ mong muốn triệt sản, vì khi thực hiện phẫu thuật có thể dễ dàng tiếp cận với ống dẫn trứng. Một số chuyên gia cho rằng thủ thuật mở tử cung cũng giống với mổ đẻ (caesarean section).

    Thái độ, Hệ quả và Sự tranh cãi của dư luận

    Hầu hết mọi người đều có quan điểm gay gắt về việc nạo phá thai. Mặc dù có một số nhóm người nhất định kịch liệt phản đối việc nạo phá thai, tuy nhiên nạo phá thai hợp pháp vẫn là một trong những phương pháp phổ biến nhất để kiểm soát việc sinh đẻ đối với nhiều người ở nhiều người trên thế giới. Nạo phá thai hợp pháp cũng là một phương pháp y tế khá an toàn, và nếu thực hiện sớm thì nó không gây hại đến khả năng thụ thai và sinh ra những đứa trẻ khỏe mạnh sau này của người phụ nữ. Tất nhiên, việc chăm sóc y tế đầy đủ và theo dõi là rất cần thiết vì một số biến chứng tiềm năng như chảy máu và nhiễm trùng vùng chậu có thể nảy sinh.

    Suy Nghĩ Cá Nhân : Những tác động nào lên các cá nhân và xã hội có thể nảy sinh khi chính phủ quy định số lượng con mà một cặp vợ chồng được phép có?

    Có nhiều phản ứng tình cảm khác nhau xuất hiện trước và sau khi nạo phá thai. Người phụ nữ có thể cảm thấy buồn nản, tức giận, xấu hổ hay tội lỗi về việc có ý định hay đã thực hiện các biện pháp nạo phá thai; những người khác có thể chấp nhận coi như đó là chuyện đương nhiên và có rất ít hoặc không có cảm giác gì; những người khác nữa có thể xem xét một cách cẩn thận sự lựa chọn của mình và quyết định rằng cô ta không thể sinh đứa trẻ ra do những nhu cầu về tài chính và tình cảm mà nó cần được đáp ứng. Tại sao lại có sự khác biệt này? Đó là do sự kết hợp của lựa chọn cá nhân, quan điểm đạo đức/tôn giáo, sự nuôi dạy và giáo dục, các phản ứng của bác sĩ chăm sóc sức khỏe, và sự có mặt hay không có mặt của những hỗ trợ về tình cảm từ bạn tình, gia đình và bạn bè, tất cả những nhân tố này có ảnh hưởng đến việc người phụ nữ sẽ phản ứng thế nào đối với sự nạo phá thai. Tuy nhiên, nói chung càng thực hiện việc phá thai muộn thì càng có nhiều hậu quả tiêu cực liên quan đến tình cảm.

    Bạn tình của người phụ nữ cũng có thể có phản ứng về mặt tình cảm liên quan đến việc nạo phá thai của cô. Mặc dù nhiều nam giới ủng hộ quyết định chấm dứt việc mang thai của người bạn tình nhưng họ cũng phẫn nộ và tức giận đối với việc thực hiện nạo phá thai. Đây là lý do giải thích tại sao việc tư vấn tâm lý giành cho cả hai người trước và sau khi phá thai lại có ích như vậy.

    Người phụ nữ hay hai người có ý định nạo phá thai cũng cần xem xét các lựa chọn khác chẳng hạn như kết hôn, nuôi con một mình và cho làm con nuôi. Trên thực tế, nhiều thanh thiếu niên mang thai và bạn tình của họ quyết định kết hôn và bắt đầu cuộc sống gia đình, thậm chí cả khi có ít khả năng những gia đình kiểu đó tồn tại lâu dài. Những phụ nữ và nam giới khác chọn cách nuôi con một mình, dựa vào sự hỗ trợ của gia đình và bạn bè. Những người khác quyết định từ bỏ con bằng cách cho làm con nuôi ngay sau khi sinh. Xem xét những cảm xúc mạnh mẽ liên quan đến việc có kế hoạch hay thực hiện nạo phá thai thì có thể thấy quyết định chấm dứt việc mang thai là một trong những điều khó khăn nhất mà người phụ nữ hay cả hai người phải đối mặt.

    Có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc nạo phá thai, đặc biệt đối với những nhóm quan tâm đến vấn đề này chẳng hạn như thành viên của Hội Hành Động Về Quyền Được Nạo Phá Thai Quốc Gia chống lại quan điểm của các thành viên Uỷ Ban Quốc Gia Về Quyền Được Sống. Có vô số những cuộc thảo luận mang tính chính trị và đạo đức/tôn giáo đang diễn ra liên quan đến bản chất gây tranh cãi của việc nạo phá thai. Nhìn chung những người ủng hộ quyền được nạo phá thai của người phụ nữ là những người “ủng hộ sự lựa chọn” còn những người coi nạo phá thai là giết hại sinh vật sống là những người “ủng hộ quyền được sống”. Khi nào thì sự sống được coi là thực sự bắt đầu — tại thời điểm thụ thai, sinh con, hay đôi khi ở giữa hai giai đoạn đó – là trung tâm của cuộc tranh luận này.

    Năm 1973, Tòa án tối cao Mỹ trong luật Roe v. Wade đưa ra quyết định rằng bào thai là sự sống ở dạng tiềm năng, và do đó nó không được hưởng bất kỳ quyền về luật pháp nào liên quan đến bản thân nó. Toà án cũng đưa ra quyết định rằng (1) ngăn cấm việc nạo phá thai ở quý đầu tiên mà việc nạo phá thai này xâm phạm đến quyền của người phụ nữ; (2) Các bang có thể quy định ai là người được phép thực hiện việc nạo phá thai đối với những thai nhi ở quý hai, tuy nhiên những quy định này phải nhằm bảo vệ lợi ích về mặt sức khỏe cho người mẹ; và (3) các bang có thể cấm việc nạo phá những thai đã sang đến quý thứ ba trừ khi cuộc sống của người mẹ trực tiếp bị đe dọa. Trước khi có quy định đó, chỉ có một vài bang cho phép thực hiện việc nạo phá thai.

    Năm 1989, tòa án tối cao ra quyết định về Dịch vụ Sức khỏe Sinh sản Webster v. Reproductive Health Services nói rằng các bang cũng có thể yêu cầu bác sĩ xác định khả năng sống độc lập của thai nhi sau 20 tuần tuổi, hạn chế việc sử dụng các thiết bị y tế công cộng phục vụ mục đích nạo phá thai, nghiêm cấm các viên chức nhà nước nạo phá thai trừ trường hợp để cứu tính mạng người phụ nữ. Hơn nữa, chính quyền của tổng thống Bush năm 1991 ở Điều luật Gag còn ngăn cấm các bác sĩ và nhân viên y tế không được đưa nạo phá thai như một sự lựa chọn giành cho các bệnh nhân, và không cấp ngân quỹ liên bang cho bất kỳ cơ sở y tế hay bệnh viện nào lơ là, không chú ý đến những quy định này. Vào đầu năm 2001, tổng thống George W. Bush đã cam kết xem xét lại vấn đề nạo phá thai với quan điểm trái ngược với luật Roe v.Wade.

    Nạo phá thai cũng là vấn đề gây tranh cãi liên quan đến đạo đức, tôn giáo nhiều thế kỷ qua, thậm chí những tranh luận về việc ủng hộ và chống đối lại hành động này cũng giúp tạo ra những thủ thuật tinh vi hơn liên quan đến nạo phá thai cho nước Mỹ. Những người chủ trương ủng hộ quyền được sống tin rằng, công nghệ khoa học ngày nay đã khiến cho việc chấm dứt sự mang thai trở nên quá dễ dàng, thậm chí cả những thai nhi ở giai đoạn cuối, điều này gây nên cái chết của vô số trẻ em chưa chào đời hàng năm. Mặt khác, những người ủng hộ quyền được lựa chọn tin rằng người phụ nữ có quyền quyết định điều gì xảy ra với cơ thể của họ và chính phủ ra quyết định chống lại việc nạo phá thai là vi phạm quyền này. Nếu người phụ nữ quyết định nạo phá thai thì cô ta có quyền làm việc đó bất kể những tiếng gọi về mặt pháp luật hay đạo đức. Cả những người ủng hộ quyền sống lẫn những người ủng hộ quyền được lựa chọn đều nhất trí rằng việc quyết định sinh con cần có sự trợ giúp xã hội và tài chính đầy đủ, và nạo phá thai một cách bất hợp pháp có thể gây nhiều rủi ro rất nghiêm trọng đối với người phụ nữ.

    Có vẻ như tranh luận về nạo phá thai sẽ còn tiếp tục trong tương lai và khó có thể có được câu trả lời rõ ràng, rành mạch. Đây là vấn đề gây tiến thoái lưỡng nan về mặt đạo đức. Dù vấn đề nhạy cảm này có thể gây tranh cãi giữa nhiều người nhưng hy vọng rằng thành viên của cả hai phía tham gia tranh luận (cũng như cả những người đứng giữa) đều nên biết đánh giá và tôn trọng những nhận thức về mặt chính trị và tôn giáo của tất cả những người có liên quan.

    NHỮNG ĐIỂM CHÍNH

    1. Ngăn cản việc mang bầu và sinh nở là trung tâm của việc kế hoạch hoá gia đình có hiệu quả, hay các bậc cha mẹ có kế hoạch ­- có nghĩa là lựa chọn xem có nên hay khi nào thì nên có con. Mục đích thiết yếu của việc tránh thai là ngăn chặn việc mang thai bằng cách không cho tinh trùng kết hợp với trứng. Mặc dù mọi người thường sử dụng từ phương pháp hạn chế sinh đẻ (birth control) và phương pháp tránh thụ thai (contraception) hoán đổi cho nhau, nhưng hai từ này không hoàn toàn giống nhau. Phương pháp hạn chế sinh đẻ mang nghĩa rộng hơn, bao gồm cả phương phòng tránh thai, và chấm dứt việc mang thai đã xảy ra.

    2. Tránh thai được chia thành nhiều nhóm: các phương pháp hooc môn, các phương pháp hóa học, các phương pháp hàng rào, các phương pháp kế hoạch hóa gia đình tự nhiên, và triệt sản. Mỗi một phương pháp trong những phương pháp trên có một tỷ lệ thất bại điển hình và tỷ lệ thất bại lý tưởng.

    3. Nạo phá thai liên quan đến một số bước nhằm chấm dứt việc mang bầu một cách có chủ ý. Trừ một số trường hợp nguy cấp, còn không thì bác sĩ thực hiện việc phá thai khi thai nhi chưa tự phát triển được. Sẩy thai (miscarriage) hay sẩy thai tự nhiên (spontaneous abortion) là hiện tượng thai bị đẩy ra ngoài một cách tự nhiên.

    4. Năm phương pháp nạo phá thai phổ biến nhất là: hút chân không (vacuum aspiration), nong và nạo (dilation and curettage) (D và C), phá thai bằng hóa chất (chemical abortion), nong và bài xuất (dilation and evacuation (D và E), và thủ thuật mở tử cung (hysterotomy). Người phụ nữ hay hai người có ý định nạo phá thai cũng cần xem xét các lựa chọn khác chẳng hạn như kết hôn, nuôi con một mình và cho làm con nuôi.

    5. Nạo phá thai quả thực là một vấn đề nóng bỏng, gây tranh cãi cả về mặt xã hội lẫn chính trị. Có vô số những cuộc thảo luận mang tính chính trị và đạo đức/tôn giáo đang diễn ra liên quan đến bản chất gây tranh cãi của việc nạo phá thai. Nhìn chung những người ủng hộ quyền được nạo phá thai của người phụ nữ là những người “ủng hộ sự lựa chọn” còn những người coi nạo phá thai là giết hại sinh vật sống là những người “ủng hộ quyền được sống”. Khi nào thì sự sống được coi là thực sự bắt đầu — tại thời điểm thụ thai, sinh con, hay đôi khi ở giữa hai giai đoạn đó – là trung tâm của cuộc tranh luận này.

    Mục lục

    Lời nói đầu ……………………………………………………………………………….

    Chương 1. Hoạt động tình dục Và Quan điểm Tâm sinh lý xã hội ………..

    Chương 2. Nghiên cứu về Tình dục là gì?………………………………………..

    Chương 3. Các khuôn mẫu, Vai trò và Nhận dạng về Giới …………………

    Chương 4. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Phụ nữ. ……………………….

    Chương 5. Giải phẫu Tình dục và Sinh lý của Nam giới ……………………..

    Chương 6. Hưng phấn tình dục và Phản ứng lại………………………………..

    Chương 7. Thiên hướng Tình dục…………………………………………………..

    Chương 8. Các mối quan hệ Yêu đương…………………………………………

    Chương 9. Hành vi Tình dục………. ……………………………………………….

    Chương 10. Hoạt động tình dục, Sức khỏe và Sự tàn tật……………………

    Chương 11. Hoạt động tình dục Và Vòng đời…………………………………..

    Chương 12. Thụ thai, Mang thai và Sinh nở………………………………………

    Chương 13. Tránh thai và Nạo phá thai……………………………………………

    Chương 14. Các bệnh lây truyền qua đường Tình dục…………………………

    Chương 15. Rối loạn Tình dục và Cách chữa trị…………………………………

    Chương 16. Tình dục đồi trụy.. ………………………………………………………

    Chương 17. Chợ tình ……………………………………………………………………

    Chương 18. Hoạt động tình dục và Luật pháp……………………………………

    Leave a Reply

    Your email address will not be published. Required fields are marked *

    giai-doc-gan-an-binh

    Khách hàng nhận xét

    Tôi đã mua Canxi King cho cháu nhà tôi uống. Sản phẩm rất tốt và dễ uống.
    Nguyễn Minh, Khu D8, Thành Công, Đống Đa, Hà Nội
    Khi dùng Grathozi – Trị nấm âm đạo, bệnh của tôi đã thuyên giảm và khỏi hẳn sau 7 ngày.
    Thu Hương
    Tôi rất yên tâm khi sử dụng sản phẩm của Dược An Bình. Từ khi sử dụng PHARZUBEST – Bổ sung vitamin và khoáng chất, sức khoẻ của tôi được cải thiện nhiều.
    Quang Trần